Hạch toán chuyên sâu tài khoản 521 - chiết khấu thương mại



TÀI KHOẢN 521 - CHIẾT KHẤU THƯƠNG MẠI

Tài khoản này dùng để phản ánh khoản chiết khấu thương mại mà doanh nghiệp đã giảm trừ, hoặc đã thanh toán cho người mua hàng do việc người mua hàng đã mua hàng (Sản phẩm, hàng hoá), dịch vụ với khối lượng lớn và theo thoả thuận bên bán sẽ dành cho bên mua một khoản chiết khấu thương mại (Đã ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán hoặc các cam kết mua, bán hàng).

HẠCH TOÁN TÀI KHOẢN NÀY CẦN TÔN TRỌNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH SAU

1. Tài khoản này chỉ phản ánh khoản chiết khấu thương mại người mua được hưởng đã thực hiện trong kỳ theo đúng chính sách chiết khấu thương mại của doanh nghiệp đã quy định. Chiết khấu thương mại là khoản doanh nghiệp bán giảm giá niêm yết cho khách hàng mua hàng với khối lượng lớn.

2. Trường hợp người mua hàng nhiều lần mới đạt được lượng hàng mua được hưởng chiết khấu thì khoản chiết khấu thương mại này được ghi giảm trừ vào giá bán trên “Hoá đơn GTGT” hoặc “Hoá đơn bán hàng” lần cuối cùng. Trường hợp khách hàng không tiếp tục mua hàng, hoặc khi số chiết khấu thương mại người mua được hưởng lớn hơn số tiền bán hàng được ghi trên hoá đơn lần cuối cùng thì phải chi tiền chiết khấu thương mại cho người mua. Khoản chiết khấu thương mại trong các trường hợp này được hạch toán vào Tài khoản 521.

3. Trường hợp người mua hàng với khối lượng lớn được hưởng chiết khấu thương mại, giá bán phản ánh trên hoá đơn là giá đã giảm giá (đã trừ chiết khấu thương mại) thì khoản chiết khấu thương mại này không được hạch toán vào TK 521. Doanh thu bán hàng phản ánh theo giá đã trừ chiết khấu thương mại.

4. Phải theo dõi chi tiết chiết khấu thương mại đã thực hiện cho từng khách hàng và từng loại hàng bán, như: bán hàng (sản phẩm, hàng hoá), cung cấp dịch vụ.

5. Trong kỳ, chiết khấu thương mại phát sinh thực tế được phản ánh vào bên Nợ Tài khoản 521 - “Chiết khấu thương mại”. Cuối kỳ, khoản chiết khấu thương mại được kết chuyển toàn bộ sang Tài khoản 511 - “Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” để xác định doanh thu thuần của khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thực tế thực hiện trong kỳ báo cáo.


KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH CỦA TÀI KHOẢN 521 - CHIẾT KHẤU THƯƠNG MẠI

Bên Nợ:
dịch vụ làm báo cáo tài chính tại Hoàng Mai
Số chiết khấu thương mại đã chấp nhận thanh toán cho khách hàng.

Bên Có:

Cuối kỳ kế toán, kết chuyển toàn bộ số chiết khấu thương mại sang Tài khoản 511 “Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” để xác định doanh thu thuần của kỳ báo cáo.

Tài khoản 521 - Chiết khấu thương mại, không có số dư cuối kỳ.

PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN KẾ TOÁN MỘT SỐ NGHIỆP VỤ KINH TẾ CHỦ YẾU

1. Phản ánh số chiết khấu thương mại thực tế phát sinh trong kỳ, ghi:

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hà nam Nợ TK 521 - Chiết khấu thương mại

Nợ TK 3331 - Thuế GTGT được khấu trừ (33311) (Nếu có)

Có các TK 111, 112, 131,. . .

2. Cuối kỳ, kết chuyển số chiết khấu thương mại đã chấp thuận cho người mua phát sinh trong kỳ sang tài khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, ghi:

Nợ TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ

Có TK 521 - Chiết khấu thương mại.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hà nam Theo Nice Accounting

[Read More...]


Hạch toán chuyên sâu tài khoản 811 - Chi phí khác



I. Tài khoản 811 - Chi phí khác

Tài khoản này phản ánh những khoản chi phí phát sinh do các sự kiện hay các nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động thông thường của các doanh nghiệp.

Chi phí khác của doanh nghiệp, gồm:

- Chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ và giá trị còn lại của TSCĐ thanh lý và nhượng bán TSCĐ (Nếu có);

- Chênh lệch lỗ do đánh giá lại vậu tư, hàng hoá, TSCĐ đưa đi góp vốn liên doanh, đầu tư vào công ty liên kết, đầu tư dài hạn khác;

- Tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế;

- Bị phạt thuế, truy nộp thuế;

- Các khoản chi phí khác.

II. Kết cấu và nội dung phản ánh của tài khoản 811 - Chi phí khác

Bên Nợ:

Các khoản chi phí khác phát sinh.

Bên Có:

Cuối kỳ, kết chuyển toàn bộ các khoản chi phí khác phát sinh trong kỳ sang Tài khoản 911 “Xác định kết quả kinh doanh”.

Tài khoản 811 không có số dư cuối kỳ.

hạch toán tài khoản 811

III. Phương pháp hạch toán kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu

1. Hạch toán nghiệp vụ nhượng bán, thanh lý TSCĐ

- Ghi nhận thu nhập khác do nhượng bán, thanh lý TSCĐ, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311) (Nếu có).

- Ghi giảm TSCĐ dùng vào SXKD đã nhượng bán, thanh lý, ghi:

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn)

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại)

Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)

Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).

- Ghi nhận các chi phí phát sinh cho hoạt động nhượng bán, thanh lý TSCĐ, ghi:

Nợ TK 811 - Chi phí khác

Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1331) (Nếu có)

Có các TK 111, 112, 141,. . .

2. Kế toán chi phí khác phát sinh khi đánh giá lại vật tư, hàng hoá, TSCĐ đầu tư vào công ty liên kết

- Góp vốn bằng vật tư, hàng hoá: Khi đầu tư vào công ty liên kết dưới hình thức góp vốn bằng vật tư, hàng hoá, căn cứ vào giá đánh giá lại vật tư, hàng hoá được thoả thuận giữa nhà đầu tư và công ty liên kết, trường hợp giá đánh giá lại nhỏ hơn giá trị ghi sổ, ghi:

Nợ TK 223 - Đầu tư công ty liên kết (Theo giá đánh giá lại)

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Chênh lệch giữa giá đánh giá lại của vật tư, hàng hoá nhỏ hơn giá trị ghi sổ của vật tư, hàng hoá)

Có các TK 152, 153, 156, 611,. . . (Giá trị ghi sổ).

- Góp vốn bằng TSCĐ: Khi đầu tư vào công ty liên kết dưới hình thức góp vốn bằng TSCĐ, căn cứ vào giá đánh giá lại TSCĐ được thoả thuận giữa nhà đầu tư và công ty liên kết, trường hợp giá trị đánh giá lại nhỏ hơn giá trị còn lại của TSCĐ, ghi:

Nợ TK 223 - Đầu tư công ty liên kết (Theo giá đánh giá lại)

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn)

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Chênh lệch giữa giá đánh giá lại của TSCĐ nhỏ hơn giá trị còn lại của TSCĐ)

Có các TK 211, 213 (Nguyên giá).

3. Phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến vốn góp vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát

3.1. Khi góp vốn liên doanh vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát bằng vật tư, hàng hoá có giá trị ghi sổ của vật tư, hàng hoá đem góp vốn lớn hơn giá đánh giá lại, ghi:

Nợ TK 222 - Vốn góp liên doanh (Theo giá đánh giá lại)

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Số chênh lệch giữa giá trị ghi sổ lớn hơn giá đánh giá lại)

Có các TK 152, 153, 155, 156, 611 (Giá trị ghi sổ kế toán).

3.2. Khi góp vốn liên doanh vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát bằng tài sản cố định có giá đánh giá lại của TSCĐ đem đi góp vốn nhỏ hơn giá trị còn lại của TSCĐ, ghi:

Nợ TK 222 - Vốn góp liên doanh (Theo giá trị thực tế của TSCĐ do các bên thống nhất đánh giá)

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số khấu hao đã trích)

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Số chênh lệch giữa giá trị đánh giá lại nhỏ hơn giá trị còn lại của TSCĐ)

Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)

Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).

4. Kế toán hoạt động góp vốn vào doanh nghiệp khác bằng vật tư, hàng hoá, TSCĐ nhưng chỉ nắm giữ dưới 20% quyền biểu quyết

- Trường hợp góp vốn bằng vật tư, hàng hoá, căn cứ vào giá đánh giá lại vật tư, hàng hoá, được thoả thuận giữa nhà đầu tư và bên nhận góp vốn, nếu giá đánh giá lại của vật tư, hàng hoá nhỏ hơn giá trị ghi sổ của vât tư, hàng hoá, ghi:

Nợ TK 228 - Đầu tư dài hạn khác (Giá đánh giá lại)

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Số chênh lệch giữa giá đánh giá lại nhỏ hơn giá ghi sổ của vật tư, hàng hoá)

Có các TK 152, 153, 156 (Giá trị ghi sổ).

- Trường hợp góp vốn bằng TSCĐ, căn cứ vào giá đánh giá lại TSCĐ được thoả thuận giữa nhà đầu tư và bên nhận góp vốn, nếu giá đánh giá lại của TSCĐ lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ, ghi:

Nợ TK 228 - Đầu tư dài hạn khác (Giá đánh giá lại)

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn)

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Số chênh lệch giữa giá đánh giá lại của TSCĐ nhỏ hơn giá trị còn lại của TSCĐ)

Có các TK 211, 213 (Nguyên giá).

5. Hạch toán các khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, bị phạt thuế, truy nộp thuế

Nợ TK 811 - Chi phí khác

Có các TK 111, 112,. . .

dịch vụ làm báo cáo tài chính tại Quận 3 Có TK 333 - Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước

Có TK 338 - Phải trả, phải nộp khác.

6. Cuối kỳ kế toán, kết chuyển toàn bộ chi phí khác phát sinh trong kỳ để xác định kết quả kinh doanh


Nợ TK 911 - Xác định kết quả kinh doanh

Có TK 811 - Chi phí khác.

dùng thử phần mềm
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Theo Nice Accounting

[Read More...]


Giới thiệu hệ thống tài khoản loại 4 - Nguồn vốn chủ sở hữu



LOẠI TÀI KHOẢN 4 - NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU

Loại tài khoản này dùng để phản ánh số hiện có và tình hình tăng, giảm các loại nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, của các thành viên góp vốn trong công ty liên doanh, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần.

Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn chủ sở hữu do chủ doanh nghiệp và các nhà đầu tư góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh, do đó nguồn vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ.

Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu vốn. Đối với công ty Nhà nước, vốn hoạt động do Nhà nước giao hoặc đầu tư nên Nhà nước là chủ sở hữu vốn. Đối với doanh nghiệp liên doanh, công ty TNHH, công ty hợp danh thì chủ sở hữu vốn là các thành viên tham gia góp vốn hoặc các tổ chức, cá nhân tham gia hùn vốn. Đối với các công ty cổ phần thì chủ sở hữu vốn là các cổ đông. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu vốn là cá nhân hoặc chủ hộ gia đình.

Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm:

- Vốn đóng góp của các nhà đầu tư để thành lập mới hoặc mở rộng doanh nghiệp. Chủ sở hữu vốn của doanh nghiệp có thể là Nhà nước, cá nhân hoặc các tổ chức tham gia góp vốn, các cổ đông mua và nắm giữ cổ phiếu;

- Các khoản thặng dư vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá;

- Các khoản nhận biếu, tặng, tài trợ (nếu được ghi tăng vốn chủ sở hữu);

- Vốn được bổ sung từ kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của chính sách tài chính hoặc quyết định của các chủ sở hữu vốn, của Hội đồng quản trị,. . .

- Các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, và các quỹ hình thành tư lợi nhuận sau thuế (Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, các quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu, lợi nhuận chưa phân phối, nguồn vốn đầu tư XDCB,. . .);

- Giá trị cổ phiếu quỹ làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu.

HẠCH TOÁN LOẠI TÀI KHOẢN NÀY CẦN TÔN TRỌNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH SAU

1. Các doanh nghiệp có quyền chủ động sử dụng các loại nguồn vốn và các quỹ hiện có theo chế độ hiện hành, nhưng với nguyên tắc phải đảm bảo hạch toán rành mạch, rõ ràng từng loại nguồn vốn, quỹ. Phải theo dõi chi tiết theo từng nguồn hình thành và theo từng đối tượng góp vốn (Tổ chức hoặc cá nhân), từng loại nguồn vốn, quỹ.

Nguồn vốn chủ sở hữu của chủ doanh nghiệp thể hiện là một nguồn hình thành của tài sản thuần hiện có ở doanh nghiệp, nhưng không phải cho một tài sản cụ thể mà là các tài sản nói chung.

2. Việc chuyển dịch từ nguồn vốn này sang nguồn vốn khác hoặc từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phải theo đúng chính sách tài chính hiện hành và làm đầy đủ các thủ tục cần thiết.

3. Khi có sự thay đổi chính sách kế toán hoặc phát hiện ra sai sót trọng yếu mà phải áp dụng hồi tố, sau khi xác định được ảnh hưởng của các khoản mục vốn chủ sở hữu thì phải điều chỉnh vào số dư đầu năm của các tài khoản vốn chủ sở hữu tương ứng với năm hiện tại.

4. Trường hợp doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản, các chủ sở hữu vốn (Các tổ chức hoặc cá nhân góp vốn) chỉ được nhận phần giá trị còn lại của tài sản sau khi đã thanh toán các khoản Nợ phải trả.

Loại Tài khoản 4 - Nguồn vốn chủ sở hữu, có 12 tài khoản, chia thành 5 nhóm:

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng Nhóm Tài khoản 41 có 7 tài khoản:

- Tài khoản 411 - Nguồn vốn kinh doanh;

- Tài khoản 412 - Chênh lệch đánh giá lại tài sản;

- Tài khoản 413 - Chênh lệch tỷ giá hối đoái;

- Tài khoản 414 - Quỹ đầu tư phát triển;

- Tài khoản 415 - Quỹ dự phòng tài chính;

- Tài khoản 418 - Các quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu;

- Tài khoản 419 - Cổ phiếu quỹ;

Nhóm Tài khoản 42 có 1 tài khoản:
dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại hà đông
- Tài khoản 421 - Lợi nhuận chưa phân phối.

Nhóm Tài khoản 43 có 1 tài khoản:

- Tài khoản 431 - Quỹ khen thưởng, phúc lợi.

Nhóm Tài khoản 44 có 1 tài khoản:

- Tài khoản 441 - Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.

Nhóm Tài khoản 36 có 2 tài khoản:

- Tài khoản 461 - Nguồn kinh phí sự nghiệp;

- Tài khoản 466 - Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại nam định Theo Nice Accounting

[Read More...]


Hệ thống kế toán quản trị trong doanh nghiệp



Tầm quan trọng của kế toán quản trị đã từ lâu không còn là vấn đề cần tranh luận nhưng triển khai kế toán quản trị vẫn là vấn đề thời sự. Triển khai kế toán quản trị như thế nào? Câu hỏi này có thể tiếp cận theo nhiều khía cạnh khác nhau, chúng tôi bắt đầu từ trọng tâm và lịch sử hình thành, phát triển kế toán quản trị.

Xét về trọng tâm kế toán quản trị, theo Michel Lebas, trong khi kế toán tài chính nhấn mạnh đến hoạt động về tài sản, nguồn vốn và tình trạng tài chính của doanh nghiệp, thì kế toán quản trị tập trung vào những ảnh hưởng đến qui trình tạo giá trị của doanh nghiệp.

Xét về quá trình hình thành, phát triển, kế toán quản trị thường được bắt đầu từ kế toán chi phí. Quá trình đó chũng chính là quá trình phát triển từ thông tin chi phí để hoạch định, kiểm soát, định hướng sản xuất đến thông tin có bản chất kinh tế để thực hiện toàn diện các chứng năng quản trị, từ doanh nghiệp nhỏ đến doanh nghiệp lớn. Do đó triển khai kế toán quản trị chính là: Thiết lập qui trình xây dựng, phát triển hệ thống thông tin chi phí, thu nhập, lợi nhuận thoe qui chuẩn nội bộ doanh nghiệp thành hệ thống thông tin thực hiện toàn diện các chức năng quản trị quy trình tạo giá trị của doanh nghiệp.

Triển khai kế toán quản trị thường được tiến hành như sau:

Bước đầu, triển khai xây dựng hệ thống thông tin nội bộ chi phí, thu nhập, lợi nhuận nhằm thiết lập nhận thức và quy trình thu thập thông tin lập báo cáo chi phí, lợi nhuận theo quy chuẩn riêng của doanh nghiệp. Nội dung này không đòi hỏi nhiều điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ của kế toán quản trị nên cũng có thẻ áp dụng cho nhiều doanh nghiệp ở quy mô khác nhau, từ doanh nghiệp tư nhân đến tập đoàn kinh tế.

Bước kế tiếp, Phát triển hệ thống thông tin thực hiện các chức năng quản trị theo từng phương thức quản trị trên cơ sở thông tin qui chuẩn nội bộ về chi phí, thu nhập, lợi nhuận. Đây chính là xây dựng hệ thống thông tin và quy trình thu thập thông tin:

- Định hướng hoạt động sản xuất, kinh doanh, như các loại dự toán: giá bán, tiêu thụ - sản xuất – chi phí, chi phí bán hàng, chi phí quản trị doanh nghiệp, kết quả sản xuất, kinh doanh, thu chi tiền, tài sản - nguồn vốn, vốn đầu tư dài hạn,…;

- Tình hình, kết quả và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, như chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất, kết quả và hiệu quả tiêu thụ, kết quả và hiệu quả kinh doanh, kết quả và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư dài hạn, kết quả và hiệu quả nguồn lực kinh tế sử dụng, cân bằng nguồn lực kinh tế,…;

- Biến động kết quả, hiệu quả và nguyên nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, như biến động kết quả, hiệu quả và nguyên nhân hoạt động sản xuất; biến động kết quả, hiệu quả và nguyên nhân hoạt động tiêu thụ; biến động kết quả, hiệu quả và nguyên nhân hoạt động kinh doanh; biến động kết quả, hiệu quả và nguyên nhân sử dụng vốn đầu tư dài hạn; biến động kết quả, hiệu quả và nguyên nhân nguồn lực kinh tế sử dụng; biến động kết quả, hiệu quả và nguyên nhân cân bằng nguồn lực kinh tế,…;

- Chứng minh các quyết định quản trị như chứng minh một phương án mới, một phương án thay thế; chứng minh giá bán, tính hữu ích của chi phí; chứng minh năng lực kinh tế, tài sản, tính hợp lý nguồn vốn; chứng minh tính cân đối tài sản - nguồn vốn; chứng minh tiềm năng tài chính qua các chỉ số tài chính,…

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại quận thủ đức Những nội dung này rất phức tạp, nhất là quy trình tạo giá trị và quản trị quy trình tạo giá trị của mỗi doanh nghiệp sản xuất rất đa dạng, nên hệ thống thông tin và và quy trình thu thập thông tin của những nội dung trên cũng rất cá biệt. Do vậy đòi hỏi thiết kế những mẫu biểu sao cho tương thích với quy trình hoạt động, nguyên lý vận hành và quy trình hoạt động, mô hình tổ chức quản trị, phương thức quản trị của mỗi doanh nghiệp để đảm bảo phản ánh phù hợp với đặc điểm, yêu cầu quản trị các đối tượng kế toán quản trị và phát huy được các chức năng và các phương pháp kỹ thuật kế toán quản trị. Do đó chỉ nên (và có thể) triển khai những nội dung này ở doanh nghiệp lớn, đảm bảo những điều kiện, vật chất, kỹ thuật, phương tiện, trình độ của kế toán quản trị nhất định.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại hải phòng Bên cạnh việc triển khai các nội dung thông tin, các bước phát triển nội dung thông tin, triển khai kế toán quản trị cũng cần chú ý đến tính linh hoạt của bộ máy kế toán quản trị. Trước đây, khi nói đến bộ máy kế toán chỉ đề cập đến bộ máy kế toán tài chính. Ngày nay, bộ máy kế toán phải bao gồm cả kế toán tài chính và kế toán quản trị. Vì vậy, khi xây dựng bộ máy kế toán cần quan tâm đến quy mô, công việc kế toán tài chính và và kế toán quản trị, sự tương thích và kết hợp tốt giữa hai bộ phận.

Tóm lại, kế toán quản trị có thể ứng dụng ở doanh nghiệp có qui mô khác nhau, cần từng bước xây dựng, phát triển nội dung thông tin song song với việc triển khai linh hoạt bộ máy kế toán. Xây dựng hệ thống kế toán quản trị trên cơ sở hoạch định một khuôn mẫu chung ổn định làm tiền đề phát triển các chi tiết thích hợp theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp là việc làm cần thiết.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại biên hòa Theo VACPA

[Read More...]


Xu hướng thời đại: Chuẩn mực kế toán toàn cầu



Bài viết này sẽ cố gắng chỉ ra tầm quan trọng của chuẩn mực kế toán toàn cầu và ảnh hưởng của nó trên thị trường toàn cầu, cũng như cung cấp những báo cáo tài chính có tính so sánh cao giúp các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đúng đắn của mình

I. Lời nói đầu

Nếu như trước đây người ta nói rằng làm sao để Chuẩn mực kế toán áp dụng ở nước này mà vẫn có thể hòa hợp được ở nước khác. Điều đấy chứng tỏ là vẫn có nhiều sự khác biệt và chúng ta phải cố gắng dung hòa. Nói một cách hình tượng hơn, đó là sự cố gắng đưa các hệ thống chuẩn mực kế toán của các nước chạy song song với nhau. Với IFRS, đó là một sự cố gắng để các chuẩn mực giữa các nước tiến gần đến với nhau hơn theo một thông lệ chung, và đó chính là sự cần thiết phải ra đời của chuẩn mực kế toán toàn cầu.

Bài viết này sẽ cố gắng chỉ ra tầm quan trọng của chuẩn mực kế toán toàn cầu và ảnh hưởng của nó trên thị trường toàn cầu, cũng như cung cấp những báo cáo tài chính có tính so sánh cao giúp các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đúng đắn của mình. Bên cạnh đó, bài viết cũng tiến hành phân tích đánh giá để làm rõ sự khác nhau chủ yếu giữa hệ thống kế toán dựa trên các điều luật và hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc mà điển hình được áp dụng lần lượt tại Mỹ và Liên minh Châu Âu.

Từ đó bài viết sẽ phân tích nguyên nhân của sự tiến tới một chuẩn mực kế toán toàn cầu, bên cạnh đó đưa ra những lợi ích cũng như những trở ngại gặp phải trong quá trình dịch chuyển đến một chuẩn mực kế toán áp dụng chung (chuẩn mực kế toán toàn cầu).

II. Thực trạng môi trường kế toán hiện nay

Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (tên viết tắt là IFRS) được Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) biên soạn và ban hành nhằm hướng dẫn việc lập và trình bày báo cáo kế toán có tính thống nhất cao và được sử dụng rộng rãi khắp thế giới. Mục đích của việc tiêu chuẩn hóa này là để giúp tạo ra sự phù hợp đối với quá trình chuẩn bị lập báo cáo tài chính trong một môi trường toàn cầu. Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ngày nay được rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới áp dụng, tính đến thời điểm cuối năm 2008 (27/8/2008) đã có hơn 100 quốc gia bao gồm Úc, Singapo, Thổ Nhĩ Kỳ,... và toàn bộ các quốc gia trong khối liên minh Châu Âu. Bên cạnh đó cũng có nhiều quốc gia đang trong quá trình chuẩn bị thông qua bộ chuẩn mực IFRS nhưng vẫn chưa được chuyển tiếp một cách hoàn toàn triệt để. Canada, Nga và Hoa Kỳ thì vẫn còn trong giai đoạn chuẩn bị để tiến tới áp dụng IFRS. Canada và Nga hy vọng rằng việc này sẽ có hiệu lực vào năm 2011, trong khi đó Hoa Kỳ lại cho rằng các yêu cầu của họ sẽ được đáp ứng và sẽ có hiệu lực vào năm 2014.

Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (tên viết tắt US SEC) mà trong đó bao gồm hơn 110 công ty lớn nhất tại Mỹ (chiếm khoảng 14% lượng vốn tại thị trường Mỹ) đã đồng ý cho phép sớm thông qua bộ tiêu chuẩn này. Các công ty này có thể bắt đầu áp dụng bộ chuẩn mực IFRS vào đầu những năm 2010. Tuy nhiên Ủy ban chứng khoán Mỹ đã đồng ý cho việc áp dụng chuẩn mực này vào năm 2011 để đảm bảo cho quyết định cuối cùng của họ là liệu xem có sự thay đổi nào nữa không đối với đại đa số các công ty lớn tại Mỹ.

Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ đã xác định 7 dấu hiệu quan trọng có thể ảnh hưởng đến quyết định của họ trong việc liệu có nên tiến tới áp dụng chuẩn mực IFRS hay không. Và đó là:

- Việc sử dụng sớm một cách có hạn chế bộ chuẩn mực IFRS;

- Những sự điều chỉnh cho phù hợp trong các nội dung và phương pháp của IFRS;

- Trách nhiệm giải trình và sự hỗ trợ từ Ủy ban sáng lập chuẩn mực kế toán Quốc tế;

- Nâng cao khả năng sử dụng dữ liệu có sự ảnh hưởng lẫn nhau trong báo cáo IFRS;

- Đào tạo và hướng dẫn thực hành các nội dung của chuẩn mực IFRS;

- Dự đoán trước tương lai của IFRS;

- Sự thi hành một cách có hiệu lực đối với việc sử dụng một cách bắt buộc IFRS.

III. Chuẩn mực kế toán toàn cầu (GAS)

1. Sự khác nhau giữa nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi tại Mỹ (US GAAP) và Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS).

Mục tiêu của các báo cáo tài chính là đưa ra các thông tin tài chính liên quan và có độ tin cậy cao về tình hình tài chính, về kết quả kinh doanh của công ty để giúp các nhà đầu tư đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động đầu tư của mình. Các vụ bê bối xảy ra tại Mỹ mà đặc biệt là vụ sụp đổ của hai tập đoàn lớn là Enron và Worldcom như là hồi chuông cảnh tỉnh đối với các nhà đầu tư, bên cạnh đó cũng đặt ra cho Ủy ban chứng khoán Mỹ (SEC) và Ủy ban chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) những thách thức nhất định, câu hỏi đặt ra cho SEC và FASB là liệu hệ thống kế toán hiện tại có đủ đáp ứng để hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc cung cấp những thông tin kế toán liên quan và đáng tin cậy hay không? Hệ thống kế toán của Mỹ hiện nay đang được tiến hành theo bộ chuẩn mực bao gồm các nguyên tắc kế toán được chấp nhận một cách rộng rãi (tên viết tắt là GAAP), tuy nhiên trước những tình hình cấp bách đang xảy ra, đòi hỏi Mỹ cũng đang từng bước tìm hiểu để áp dụng đối với chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), đó chính là chuẩn mực kế toán quốc tế (GAS).

Điều này đã gây ra những cuộc thảo luận và tranh cãi giữa các bên, và vấn đề đặt ra là hệ thống kế toán dựa trên các điều luật hay hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc sẽ đem lại một báo cáo tài chính có giá trị nhất. Hệ thống kế toán Hoa Kỳ bắt đầu và được biết đến với hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc, tuy nhiên sau đó do sức ép từ các kế toán viên và kiểm toán viên chuyên nghiệp yêu cầu là phải có hướng dẫn cụ thể hơn nữa đối với các vấn đề kế toán gặp phải trong quá trình hoạt động, chính điều đó đã cho thấy những bất cập tồn tại trong hệ thống kế toán dựa trên các điều luật. Và ngay lập tức Ủy ban chuẩn mực kế toán tài chính Hòa Kỳ đã có những động thái nhằm thỏa hiệp với các tổ chức có lợi ích lớn trong vấn đề này để ngăn chặn việc họ chuyển hướng trong việc sử dụng bộ tiểu chuẩn IFRS. Và IFRS tất nhiên là hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc.

Đối với một hệ thống kế toán dựa trên các điều luật thì các công ty khi sử dụng hệ thống kế toán này có thể thao túng và chi phối tình hình tài chính của họ bằng cách chú ý và kiểm soát các loại hình giao dịch xảy ra phục vụ cho lợi ích cá nhân của họ thay vì để các giao dịch xảy ra một cách tư nhiên miễn sao họ có thể được đáp ứng các yêu cầu cụ thể mang tính chắc chắn. Chính vì điều này mà họ luôn tìm mọi cách che đậy những thông tin tài chính bất lợi cho họ (ví dụ như nợ xấu của công ty) để thuyết phục các nhà đầu tư hay các kiểm toán viên trong quá trình tìm hiểu thông tin về công ty. Cái bất cập lớn nhất đối với hệ thống kế toán này đó là họ có thể thao túng các quy định về luật để đưa ra các thông tin tài chính theo một cách sai lệch.

Khác với hệ thống kế toán dựa vào các điều luật, hệ thống kế toán dựa vào các nguyên tắc sẽ không có các quy định cụ thể trong việc xác định chi tiết các giao dịch xảy ra. Thay vào đó, hệ thống kế toán này đưa ra các mục tiêu của nguyên tắc và từ đó yêu cầu các kế toán viên phải áp dụng các nguyên tắc đó để trình bày các thông tin tài chính một cách chính xác và chân thật nhất.

Một ưu điểm khác nữa của hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc đó là sự linh hoạt vốn có của nó trong quá trình ứng dụng. Trong khi hệ thộng kế toán dựa trên các điều luật phải cố gắng xác định mỗi khả năng có thế xẩy ra, tuy nhiên nó không được trang bị một cách đầy đủ để giải quyết các vấn đề mới nổi lên hoặc những tình huống mới. Bên cạnh đó, hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc, với các nguyên tắc bao quát rộng có thể đưa ra sự hướng dẫn về các tình huống đang tồn tại, cũng như việc áp dụng các vấn đề kế toán đang thay đổi hoặc mới xuất hiện.

Điều trở ngại chính của hệ thống kế toán dựa trên các điều luật hiện nay đó là sự phức tạp của các quy định. Và đối với một công ty khi mà lần đầu tiên đang gặp phải vấn đề vướng mắc liên quan đến kế toán thì khả năng để đưa ra một quyết định cuối cùng đối với nhà quản lý có thể gặp một vài khó khăn. Với hệ thống cấp bậc của GAAP và toàn bộ các mức độ khác nhau của lý thuyết trong hệ thống kế toán này, đây thực sự là một sự khó khăn và mất nhiều thời gian để tìm ra những quy định hợp lý và có thể tin cậy vì chưa có bất kỳ một lời tuyên bố chính thức nào từ các nhà làm luật là sẽ sửa đổi các quy định này cho phù hợp với các tình huống cụ thể của công ty. Ngược lại, với hệ thống kế toán dựa trên các quy tắc, việc hướng dẫn sử dụng có phần ít phức tạp và dễ sử dụng hơn. Các kế toán viên không cần tìm hiểu các thông tin bằng cách thông qua một số lượng lớn những lời tuyến bố khác nhau để tìm ra một quy định cụ thể, nếu như họ hiểu được các quy tắc này một cách rõ ràng thì họ có thể áp dụng vào những tình huống cụ thể của họ.

Thông qua các trường hợp xảy ra tại Mỹ, một số lượng lớn các nước hiện nay đã tận dụng những ưu điểm của hệ thống kế toán dựa trên luật đem lại nhưng cũng từng bước có hướng chuyển dịch sang việc áp dụng hệ thống kế toán dựa trên nguyên tắc hoặc các chuẩn mực kế toán quốc tế.

2. Nguyên nhân dẫn đến sự dịch chuyển sang Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)

Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn đã tác động mạnh đến quá trình hội nhập quốc tế về chuẩn mực kế toán. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập của hệ thống kế toán, năm 2001 Ủy ban chuẩn mực kế toán tài chính quốc tế (IASB) đã được thành lập dựa trên nền tảng của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) nhưng với một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và độc lập hơn. Mục tiêu của IASB là hình thành một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho lợi ích chung, có chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới, cung cấp những thông tin tài chính rõ ràng, chính xác và có thể so sánh giúp các nhà đầu tư đưa ra các quyết định cuối cùng một cách đúng đắn.

Hiện nay trên thế giới đã có khoảng 100 quốc gia áp dụng chuẩn mực IFRS. Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ và các bên liên quan cũng đang xem xét đến những lợi ích đem lại khi tham gia chung vào chuẩn mực kế toán quốc tế này. Vào khoảng thời gian 11 năm trước đây, một ý tưởng về làm thế nào để tạo ra sự hòa hợp giữa các chuẩn mực kế toán cũng đã được đem ra bàn luận nhưng cũng chưa đi đến đích cuối cùng. Nhưng ngày nay, với sự hội tụ đầy đủ về khả năng nhận thức, và chẳng bao lâu nữa, Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ cần đưa ra lộ trình trong việc cho phép hoặc yêu cầu các báo cáo tài chính của họ từng bước phải phù hợp với chuẩn mực IFRS.

Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ và Ủy ban Liên minh Châu Âu hoàn toàn tán thành với ý tưởng làm sao để có hòa hợp giữa các bộ tiêu chuẩn có sự ảnh hưởng lớn đến các nhà đầu tư đó là bộ tiêu chuẩn US GAAP và IFRS. Trước đây các quốc gia thường có các quy định riêng cho mình trong việc áp dụng các chuẩn mực kế toán và gọi là các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi (GAAP), ví dụ ở Mỹ có US GAAP, ở Canada có Canada GAAP. Các nước cộng đồng chung Châu Âu cũng có những quy định chuẩn mực chung cho mình như IAS và sau này là IFRS. Chính điều này đã gây ra nhiều khó khăn bất cập cho các nhà đầu tư và các công ty đa quốc gia. Ví dụ như một công ty A được thành lập tại Châu Âu, nhưng lại đăng ký niêm yết tại Mỹ, khi đó công ty phải tiến hành chuyển đổi các báo cáo đang được lập theo chuẩn mực IFRS sang chuẩn mực US GAAP. Công việc này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hoạt động kinh doanh của công ty, và công ty phải tốn không ít thời gian, công sức và chi phí để chuyển đổi các loại hình báo cáo tài chính cho phù hợp. Ví dụ tương tự đó là các công ty có công ty mẹ, công ty con khi mà công ty mẹ ở nước này nhưng công ty con ở các nước khác, việc hợp nhất báo cáo tài chính theo chuẩn mực của công ty mẹ cũng cần rất nhiều thời gian.

Chính điều này đã thúc đẩy các quốc gia đang sử dụng bộ chuẩn mực GAAP cần có kế hoạch thay đổi và hướng tới việc áp dụng chuẩn mực IFRS.

3. Những lợi ích của việc ra đời chuẩn mực kế toán toàn cầu (GAS)

Các động thái nhằm hướng đến một bộ chuẩn mực kế toán toàn cầu đang được xúc tiến một cách mạnh mẽ bởi nhiều lý do. Sự hòa nhập của nền kinh tế thế giới đang xảy ra một cách nhanh chóng và chính thị trường quốc tế này đã giúp cho những người làm nghề kế toán xích lại gần với các chuẩn mực kế toán toàn cầu hơn. Với một sự bảo đảm mang tính chắc chắn như chiếc cầu nối từ Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) và hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) thì chuẩn mực kế toán quốc tế sẽ trở thành hiện thực trong một tương lai không xa. Một số lợi ích có thể thấy được của việc có một chuẩn mực kế toán quốc tế đối với thị trường toàn cầu ngày nay là:

Lợi ích đầu tiên phải kể đến đó là tạo ra sự tự do có thể so sánh được của các báo cáo tài chính. Hiện nay có nhiều cách thức khác nhau để sắp xếp và chuẩn bị các báo cáo tài chính. Một trong những trở ngại mà nhà đầu tư phải vượt qua đó là đưa ra các quyết định đầu tư khi mà các thông tin tài chính được báo cáo dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi quốc gia có những yêu cầu riêng của mình và quy trình mà mỗi quốc gia đó phải tuân theo. Khi việc toàn cầu hóa các chuẩn mực kế toán xẩy ra sẽ gây ra một vài vấn đề khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài vì việc xem xét các báo cáo tài chính được chuẩn bị dưới các chuẩn mực khác nhau sẽ là một thách thức lớn đối với họ.

Lợi ích thứ 2 mà chuẩn mực kiểm toán toàn cầu mang lại đó là làm giảm chi phí đầu tư ở các thị trường khác nhau. Lợi ích này có thể được nhận ra từ việc cắt giảm bớt công việc mà bình thường trước đây nhà đầu tư yêu cầu được xem lại hồ sơ ghi chép tài chính đối với thị trường nước ngoài. Các công ty đa quốc gia cũng có thể hợp lý hóa các loại báo cáo và giảm bớt các chi phí liên quan bằng cách phát triển một hệ thống kế toán áp dụng chung. Các chi phí liên quan trong việc thiết kế lại các báo cáo kế toán khác nhau thành những báo cáo kế toán dễ đọc và dễ so sánh cho các nhà quản lý.

Lợi ích thứ 3 cũng dễ nhận ra đó là với việc sử dụng chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ tạo ra các hoạt động mang tính toàn cầu. Việc áp dụng các chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ làm tăng niềm tin cho các nhà đầu tư trên thị trường với điều kiện là chuẩn mực này phải được áp dụng một cách nghiêm ngặt bởi sự tuân thủ cao. Các công ty này có thể có đánh giá để tiến hành đầu tư, thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh, các dự án hoặc thậm chí đầu tư vào các lĩnh vực mới tại nước ngoài.

4. Những khó khăn gặp phải trong quá trình tiến tới một chuẩn mực kế toán toàn cầu (GAS)

Đối với những người theo chủ nghĩa hoài nghi thì họ tin rằng chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ rất là phức tạp vì nó còn liên quan đến các vấn đề thuộc về quy định và luật pháp tại các nước sở tại. Hơn thế nữa, chuẩn mực kế toán quốc tế cũng vừa mới ra đời nên vẫn còn trẻ và vẫn còn nhiều cơ hội để phát triển và hoàn thiện hơn. Cũng có nhiều câu hỏi được đặt ra trong vấn đề này đó là thực chất của quá trình xích lại gần nhau của GAAP và IFRS là như thế nào? Chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ là một sự kết hợp mang tính toàn diện hay là sự kết hợp bao gồm cả 2 hệ thống (hệ thống kế toán dựa trên các điều luật và hệ thống kế toán dựa trên các quy tắc) nhưng tách biệt nhau.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng Một sự chấp nhận đối với một chuẩn mực kế toán dựa trên các nguyên tắc có nghĩa là đã cho nó một chỗ đứng qua việc làm hiểu rõ các nguyên tắc kế toán được áp dụng như thế nào. Chính điều này có thể chứa đựng những rủi ro tiềm tàng tạo ra sự không nhất quán đối với các báo cáo của các quốc gia. Trên thực tế, đây là một sự cản trở cho các quốc gia trong việc nỗ lực tham gia quá trình toàn cầu hóa này.

Ủy ban Châu Âu, một bộ phận điều hành của Khối liên minh Châu Âu trong lĩnh vực này cũng đã thành lập những bộ phận tư vấn như là một sự xác nhận của IFRS. Eumedion, một diễn đàn về quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư cũng bày tỏ những mỗi quan tâm của mình đối với việc chuyển đổi sang hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc này. Qua diễn đàn, cũng có nhiều ý kiến bày tỏ rằng sẽ có những rủi ro tiềm ẩn đó là các thông tin tiêu cực sẽ không được chia sẻ với các thành viên của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế, và rút cục nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình quản trị công ty. Diễn đàn cũng nhìn nhận và chỉ thẳng ra các vấn đề còn tồn tại như là thiếu tính khách quan, không có khả năng so sánh, thiếu các thông tin về địa lý và cuối cùng sự không nhất quán đối với các tiêu chí đo lường mà họ đã áp dụng.

Một mối quan tâm khác cũng được đưa ra thảo luận đó là ảnh hưởng của nó đến những người thuộc cộng đồng quốc gia Hồi giáo, nơi mà con người có thói quen là đặt niềm tin vào đồng tiền. Thời kỳ phát triển của nền tài chính Hồi giáo thường được biết đến là vào năm 1970 với sự ra đời hàng loạt các ngân hàng Hồi giáo tại Ả Rập và Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Nền tài chính của Hồi giáo phát triển được dựa trên nguồn gốc là luật Hồi giáo và Sharia. Sharia tuyên bố rằng không có khoảng cách nào giữa nhà thờ và nhà nước của họ, đó là một thế thống nhất.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại hoàn kiếm Khi xem xét các vấn đề đã nêu trên có thế thấy rằng việc toàn cầu hóa đối với chuẩn mực kế toán sẽ xảy ra trong một tương lại không xa. Và mục tiêu của IFRS nhằm thúc đẩy các công ty đa quốc gia hoạt động với một một sự thống nhất cao và quyết liệt trong việc áp dụng các chuẩn mực kế toán.

IV. Kết luận

Nếu như không quan tâm đến các tranh cãi xảy ra, một hệ thống kế toán toàn cầu luôn là mục tiêu của nhiều công ty lớn xuyên quốc gia. Trên thực tế, có nhiều quốc gia đã sẵn sàng tuân theo IFRS và một số quốc gia khác đã cam kết tuân thủ với chuẩn mực này trong một vài năm tiếp theo. Bài viết này cũng đã giúp các bạn hiểu được những nét chính giữa hệ thống kế toán dựa trên các điều luật (như là US GAAP) và hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc (như là IFRS). Chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ cho phép các nhà đầu tư cũng như các công ty lớn đưa ra các quyết định kinh doanh và đầu tư chính thức đúng đắn dựa trên các báo cáo tài chính. Mặc dù trong quá trình tiến tới chuẩn mực kế toán toàn cầu còn có nhiều trở ngại và thách thức đặt ra, nhưng hơn ai hết, với những lợi ích to lớn của nó mang lại, nó sẽ vượt qua những trở ngại đó và đi đến thành công, đó là việc hình thành nên chuẩn mực kế toán toàn cầu áp dụng chung cho tất cả các quốc gia trên toàn thế giới.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức
Theo Khoa học kiểm toán

[Read More...]


Xác định giá trị tài sản cố định vô hình không hề đơn giản!



Ngày nay, các tài sản trí tuệ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự thành công của doanh nghiệp. Tài sản trí tuệ hay còn gọi là tài sản vô hình có thể bao gồm: bằng sáng chế, bản quyền tác giả, thương hiệu... Tài sản vô hình giúp doanh nghiệp tạo ra dấu hiệu khác biệt trong thương trường, đồng thời tạo ra những dấu ấn riêng có để đảm bảo doanh nghiệp phát triển, có nhiều cơ hội đặc biệt và thành công chung. Để tài sản vô hình mang lại giá trị lâu dài cho doanh nghiệp thì việc xác định đúng giá trị của nó là khâu quan trọng nhất trong quá trình hình thành và sử dụng hiệu quả.

Tài sản cố định vô hình là gì?

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 – “Tài sản cố định vô hình” định nghĩa như sau: “Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình.” Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 38 – “Intangible assets” tài sản vô hình là các tài sản không thể xác định được chính xác giá trị về mặt tiền tệ và hình thái vật chất.

Phân loại tài sản vô hình

Hiện nay, theo quan điểm của nhiều chuyên gia đầu ngành trong việc định giá thì tài sản vô hình có 6 loại, trong đó có 5 loại là tài sản vô hình được định danh và 1 loại tài sản vô hình khác, gồm:

Các sáng chế, phát minh, công thức, quy trình, mô hình, kỹ năng, bí mật kinh doanh.
Bản quyền tác giả và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật.
Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, đặc điểm nhận dạng sản phẩm.
Quyền kinh doanh, giấy phép, hợp đồng.
Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, khảo sát, nghiên cứu, dự báo, dự toán, danh sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật.
Các loại tài sản vô hình khác (như đội ngũ nhân lực, vị trí kinh doanh...).
Vì sao phải định giá tài sản vô hình?

Hiện nay, trong quá trình phát triển, tài sản vô hình mang lại một giá trị cao và đóng vai trò trọng yếu đối với một doanh nghiệp. Hơn nữa, các tài sản trí tuệ như vậy cần được xác định đúng giá trị cho mục đích kế toán, thuế, các vụ mua bán, hợp nhất... Tuy nhiên, việc xác định giá trị của các tài sản này hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, do việc áp dụng các công thức tính toán, phương pháp tính toán, điều kiện tính toán..., dẫn đến sự bỡ ngỡ của nhiều công ty. Nội dung quan trọng này cũng nhằm hướng tới việc sẽ sử dụng giá trị theo mục đích báo cáo tài chính. Dựa trên chuẩn mực FASB số 141 và 142, đặc biệt nó còn được sử dụng cho kiểm toán viên và các nhà đầu tư đánh giá đúng giá trị tài sản vô hình mà doanh nghiệp đã kê khai trên các báo cáo. Bài viết này tác giả tổng hợp 20 bước cụ thể trong việc xác định giá trị tài sản vô hình theo quy định của chuẩn mực quốc tế.

Bước 1: Kiểm tra tính pháp lý của tài sản

Trước khi xác định giá trị tài sản vô hình, chúng ta cần phải xác định rằng tài sản này đã được đăng ký giá trị và được bảo hộ bởi đơn vị nào hay chưa? Tài sản này sau khi đăng ký giá trị sẽ được bảo hộ như thế nào, trong thời gian bao lâu và phí bảo hộ bao nhiêu, vì nếu việc xác định giá trị được hoàn tất, mà tài sản không được bảo vệ thì tài sản đó không còn ý nghĩa.

Bước 2: Xác định hoàn cảnh cụ thể

Chúng ta cần phải đặt ra các giả định và giả thiết ban đầu trước khi đi vào tính toán cũng như lựa chọn phương pháp xác định giá trị của tài sản.

Bước 3: Thu thập thông tin liên quan

Trường hợp tài sản dự kiến có giá trị cao, người đánh giá cần thu thập thêm thông tin liên quan bổ sung cho quá trình định giá, có thể gồm những nội dung sau:

- Danh mục tất cả các đối tượng đã có giá trị có liên quan đến tài sản mà chúng ta đang định giá.
- Bản kế hoạch kinh doanh có liên quan khi đưa tài sản này vào sử dụng, nghiên cứu thị trường cũng như từ các đối thủ cạnh tranh về tài sản này.
- Tập hợp các đánh giá khách quan từ những cá nhân độc lập, từ các chuyên gia...
- Các vụ kiện tụng hoặc những vụ tranh chấp có liên quan.
- Tổng hợp các dữ liệu hay số liệu thống kê về kinh tế, về các ngành nghề mà tài sản này có liên quan.
- Thông tin chi phí liên quan đến việc tạo ra hoặc phát minh ra tài sản này.
- Các thông tin khác.

Bước 4: Tập hợp từ đội ngũ chuyên viên đánh giá

Tìm hiểu từ giới chuyên môn về luật pháp có liên quan đến việc đăng ký và bảo hộ giá trị của tài sản sau định giá, nhận thức ban đầu về mức độ độc quyền của tài sản, sự hiểu biết về công nghệ kỹ thuật đã áp dụng để tạo nên giá trị thực của tài sản. Từ những hiểu biết này, các nội dung cần được tập hợp để làm cơ sở định giá theo khía cạnh chuyên môn.

Bước 5: Nghiên cứu kỹ về tài sản vô hình này

Sau khi đã có các thông tin liên quan, chúng ta tiến hành nghiên cứu kỹ về tài sản vô hình, cần có sự hiểu biết về tên người tạo ra, tài sản thuộc nhóm nào, tính chất riêng có của tài sản... để xác định được thời gian hữu dụng dự kiến của tài sản.

Bước 6: Nghiên cứu về phạm vi của tài sản vô hình

Phạm vi của tài sản vô hình là xác định xem tài sản này sẽ áp dụng đến những khu vực nào, những khoảng không gian nào, trong vùng điều kiện nào... Và đây là căn cứ quan trong việc tính giá trị của tài sản này.

Bước 7: Trao đổi với luật sư

Chúng ta cũng cần xem xét và trao đổi với luật sư có hiểu biết về tài sản này, vì các nhân tố chi phối theo quy định của pháp luật cũng có ảnh hưởng không kém đến giá trị của tài sản vô hình sau khi xác định.

Bước 8: Xác định tính hợp lệ của tài sản

Chúng ta cần xác định tính hợp lệ, hợp pháp của tài sản này, vì nếu trong trường hợp chúng ta đã mất nhiều thời gian, chi phí liên quan đến định giá và tiến hành công bố tài sản, tuy nhiên nếu tòa án kết luận rằng, nhà đầu tư tài sản này chưa đáp ứng đúng các yêu cầu của pháp luật hay luật lệ đặc thù riêng có, thì tài sản này sẽ tự động mất giá trị toàn bộ.

Bước 9: Khoanh vùng tài sản vô hình của chính doanh nghiệp

Do tính chất riêng có của tài sản vô hình là không có hình thái cụ thể. Do đó, chúng ta không nên quan niệm đơn giản rằng, doanh nghiệp sở hữu tài sản này có quyền sử dụng tài sản đó trong thực tế, vì đơn giản, nếu không cẩn thận, tài sản này có thể sẽ bị sử dụng bởi một ai khác, và tất nhiên, nó sẽ không còn giá trị. Do đó, chúng ta cần báo với luật sư hoặc nơi có thẩm quyền về sự hiện hữu và tồn tại của tài sản do chính doanh nghiệp mình nắm giữ.

Bước 10: Xét ngành đăng ký tài sản

Tiếp theo chúng ta cần xem xét ngành hay lĩnh vực theo đúng quy định để xác định các tài sản vô hình tương tự đã có giá trị như thế nào, sự khác nhau và giống nhau cơ bản, làm căn cứ định giá.

Bước 11: Tìm hiểu về tài sản này ở các quốc gia khác

Vì tài sản vô hình thường được tạo ra không chỉ sử dụng trong phạm vi của doanh nghiệp mà nó sẽ sử dụng ở các khu vực khác hoặc các quốc gia khác. Chúng ta cần tìm hiểu mức độ áp dụng đến đâu để có một thông tin chung nhất về việc sử dụng tài sản, và tài sản sử dụng càng nhiều sẽ có giá trị càng cao.

Bước 12: Xem xét về thời gian hữu dụng của tài sản

Nhân viên định giá bên cạnh việc xem xét thời gian sử dụng của tài sản vô hình theo quan điểm pháp luật, thì cần phải xem xét việc sử dụng theo khía cạnh kinh tế, kỹ thuật, xã hội cũng như hoàn cảnh thực tế. Ví dụ, tại Việt Nam, theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, quyền tác giả của một quyển sách có tên tác giả cụ thể sẽ được bảo hộ vô thời hạn trong suốt thời gian sử dụng cuốn sách này.

Bước 13: Phân tích các tài sản vô hình có trước

Sau khi xác định thời gian, cần phải thu thập và ghi chú lại những trường hợp đã đăng ký các tài sản tương tự, giá trị là bao nhiêu, để có cơ sở xác định những điểm khác cơ bản làm căn cứ định giá.

Bước 14: Tìm hiểu và điều tra các vụ kiện có liên quan đến tài sản

Một điều dễ thấy rằng, nếu xác định tài chúng ta đang có và nắm giữ là do chúng ta sở hữu, chưa có bất kỳ vụ kiện nào có liên quan thì tất yếu giá trị tài sản sẽ phải tăng lên một cách tương ứng.

Bước 15: Lựa chọn phương pháp định giá cơ bản

Tùy theo quy định của từng quốc gia, sẽ có phương pháp định giá khác nhau, và tất nhiên mỗi phương pháp sẽ có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tại Việt Nam, theo Thông tư số 79/2002/TT-BTC ngày 12/09/2002, giá trị tài sản nói riêng và giá trị của doanh nghiệp nói chung có thể xác định theo một trong hai phương pháp chính: (1) phương pháp xác định giá trị theo tài sản và (2) phương pháp dòng tiền chiết khấu; riêng đối với tài sản vô hình sẽ tính theo giá trị còn lại trên sổ kế toán.

Bước 16: Xác định đường cầu của tài sản vô hình

Nhân viên định giá ước tính nhu cầu phát sinh do sử dụng tài sản này để vẽ nên đường cầu tương ứng. Câu hỏi quan trọng trong quá trình điều tra và thu nhập thông tin giai đoạn này chính là: sự mong đợi của người sử dụng và doanh thu có thể thu được ở nhiều mức giá khác nhau sẽ là bao nhiêu?

Bước 17: Xác định điểm cân bằng để tối đa hóa lợi nhuận

Nhân viên định giá phải xác định mức giá đơn vị để tối đa hóa lợi nhuận theo các bước sau:

- Trước tiên, tính toán và xác định đường doanh thu biên tế (Marginal Revenue curve) từ đường cầu đã xác định, điều tra và vẽ được ở bước (16) trên. Đường MR sẽ mô tả sự thay đổi của tổng doanh thu tạo ra bởi việc bán thêm một sản phẩm tại một mức giá bất kỳ (unit price).

- Thứ hai, ước tính về số chi phí sẽ phát sinh tại các mức sản xuất sản phẩm khác nhau và từ thông tin này sẽ vẽ nên đường chi phí biên (Marginal Cost curve). Thông tin của đường MC có thể được tập hợp từ thông tin kế toán chi phí và/hoặc từ việc nghiên cứu về kỹ thuật có liên quan đến chi phí sản xuất sản phẩm.

- Thứ ba, sau khi đã xác định được đường MR và MC khi có tài sản vô hình thì nhân viên định giá sẽ vẽ được đồ thị để xác định điểm cân bằng trong tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp.



Chúng ta cùng xem đồ thị dưới đây, tại doanh nghiệp ABC, nếu doanh nghiệp có được tài sản vô hình thì có thể sẽ bán được 2.500 sản phẩm tại mức giá 35$/sản phẩm. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp không có tài sản vô hình, do sự tác động khách quan từ thị trường cũng như áp lực từ các đối thủ cạnh tranh, những điều này sẽ làm giảm giá sản phẩm xuống chỉ còn 10$/sản phẩm, tức là điểm giao nhau giữa đường cầu (D) và đường chi phí biên (MC). Và khi phân tích theo quy trình này, chúng ta sẽ xác định được một mức giá tối ưu, điểm mà sẽ mang lại lợi nhuận tối đa cho công ty.

Bước 18: Xác định các nhân tố phụ

Sau khi xác định hoàn tất các nhân tố chính, cần xem xét thêm các yếu tố khác có thể chi phối đến giá trị của chính tài sản vô hình mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Cụ thể, cần cân nhắc các yếu tố sau đây: (1) tỷ lệ hao mòn của tài sản theo thời gian, (2) tốc độ phát triển của các yếu tố vi mô và vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, (3) các đối thủ cạnh tranh có liên quan, (4) dòng tiền mang lại khi sử dụng tài sản trong tương lai.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh
Bước 19: Tổng hợp quá trình định giá

Sau khi tập hợp toàn bộ thông tin, dữ liệu đã thu thập được, dựa trên phương pháp định giá, tiến hành tính toán và xác định giá trị tương đối của tài sản vô hình mà doanh nghiệp nắm giữ, sao cho phù hợp với những chi phí đã bỏ ra và sẽ mang lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.

Bước 20: Lập báo cáo định giá

dịch vụ làm báo cáo tài chính tại Quận Tây Hồ Tài sản vô hình sau khi có giá trị cụ thể cần phải được lập báo cáo phản ánh đúng quá trình định giá, các giả định và giả thiết phát sinh, cơ sở tính toán, các hạn chế hay giới hạn của việc định giá cũng như các kết luận về giá trị có được. Đồng thời, báo cáo này cũng được gửi cho các cơ quan có chức năng để công nhận về mặt giá trị và đảm bảo quyền sở hữu, thời hạn bảo hộ cho chính chủ của doanh nghiệp này.

Tóm lại, quá trình định giá giá trị tài sản vô hình là một quá trình khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự tổng hợp thông tin, phân tích kỹ thuật cũng như các kỹ thuật chuyên môn cao. Tuy nhiên, lợi ích mang lại từ tài sản vô hình là rất lớn và góp phần vào sự thành công cho doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp có thể xem xét và vận dụng để có thể xác định một cách tương đối chính xác giá trị của nó để nhằm nâng cao giá trị của toàn doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại đà nẵng Theo VACPA

[Read More...]


Những mô hình kế toán quản trị hiện hành



Trong giai đoạn hiện nay thông tin được xem như là một yếu tố trực tiếp của quá trình sản xuất kinh doanh nên để thích ứng với hoàn cảnh mới, các nhà quản trị đã có các phương pháp tiếp cận đối với các chức năng khác nhau của kế toán trong kinh doanh, tiếp thị, sản xuất, tài chính, ứng xử về mặt tổ chức và quản lý doanh nghiệp

Trong bối cảnh đó, kế toán quản trị hình thành và phát triển, trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống cung cấp thông tin phục vụ cho việc quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Quá trình hình thành và phát triển của kế toán quản trị ở các nước đều gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, đều đặt trọng tâm vào giải quyết các vấn đề quản trị doanh nghiệp, là một trong những nguồn thông tin quan trọng cung cấp thông tin cho nhà quản trị doanh nghiệp điều hành, hoạch định và ra các quyết định kinh doanh.

Mô hình tổ chức kế toán quản trị có thể khái quát:

Mô hình kết hợp: Loại mô hình này được sử dụng ở hầu hết các nước, đặc biệt là ở Mỹ và các nước áp dụng kế toán Mỹ. Mỹ là quốc gia có bề dày phát triển kế toán quản trị chi phí cả về lý luận và thực tiễn. Các doanh nghiệp Mỹ đều áp dụng mô hình kết hợp kế toán quản trị và kế toán tài chính, hoặc mô hình phối hợp với hệ thống kế toán quản trị chi phí được tách riêng. Theo mô hình này kế toán trưởng chịu trách nhiệm chung về toàn bộ công tác kế toán trong doanh nghiệp từ việc tổ chức xây dựng bộ máy kế toán, lưu chuyển chứng từ, vận dụng tài khoản, hệ thống báo cáo…nhằm cung thong tin cho nhà quản trị. Các bộ phận kế toán có chức năng thu thập và cung cấp thông tin kế toán vừa tổng hợp, vừa chi tiết...đồng thời lập dự toán tổng hợp và chi tiết theo yêu cầu quản lý. kế toán quản trị đặt trọng tâm vào việc xây dựng, kiểm tra, xác định và hoạch định các chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi đó doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai phương pháp xác định chi phí và giá thành sản phẩm: phương pháp kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm theo công việc và phương pháp kế toán chi phí, tính giá thành theo quá trình sản xuất

Kế toán quản trị không sử dụng chế độ kế toán riêng, tách rời với kế toán tài chính mà sử dụng các tài khoản kế toán chi tiết, hệ thống sổ kế toán và báo cáo kế toán quản trị kết hợp chung trong một hệ thống kế toán thống nhất với kế toán tài chính. Hệ thống kế toán quản trị được tổ chức kết hợp với hệ thống kế toán tài chính. Kế toán tài chính và kế toán quản trị được tổ chức thành một bộ máy thống nhất trong cùng một bộ máy kế toán. Kế toán tài chính sử dụng các tài khoản kế toán tổng hợp còn kế toán quản trị sử dụng các tài khoản chi tiết, sổ kế toán chi tiết phù hợp, báo cáo kế toán nội bộ và còn sử dụng thêm các phương pháp khác như phương pháp thống kê, phương pháp toán...để hệ thống hóa và xử lý thông tin. Việc ghi chép, phản ánh, xử lý và truyền đạt thông tin được tính đến cả mục đích của kế toán tài chính và kế toán quản trị nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin kế toán cho cả đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Mỗi bộ phận kế toán có chức năng thu thập, cung cấp thong tin kế toán vừa ở dạng tổng hợp, vừa ở dạng chi tiết theo yêu cầu quản lý. Bộ phận kế toán quản trị chi phí sử dụng báo cáo bộ phận để cung cấp thong tin cho nội bộ doanh nghiệp, bộ phận kế toán tài chính sử dụng hệ thống báo cáo tài chính để cung thong tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.

Loại mô hình tách rời: Loại mô hình tổ chức kế toán quản trị này áp dụng chủ yếu ở Cộng hòa Pháp và những nước thực hiện theo kế toán Cộng hòa Pháp. Theo mô hình tách rời ở Pháp, kế toán quản trị đặt trọng tâm vào việc xác định và kiểm soát chi phí ở các doanh nghiệp sản xuất, bằng cách chia chi phí theo các trung tâm trách nhiệm quản lý, phân tích đánh giá và tìm các nguyên nhân làm sai lệch chi phí và cuối cùng điều hòa giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị. Các quy định chung về kế toán chi phí tại Pháp hướng dẫn doanh nghiệp đánh giá hoạt động bằng cách lập báo cáo thực hiện dự toán trên cơ sở các số liệu kế toán nhưng trên thực tế hầu hết các doanh nghiệp Pháp đều không vận dụng các hướng dẫn này mà họ lập các báo cáo đánh giá hoạt động hầu như chỉ dựa trên các thông tin phi tài chính, chứ không dựa trên các số liệu tài chính do kế toán cung cấp, các báo cáo này rất khác biệt so với các báo cáo bộ phận của các trung tâm trách nhiệm theo hệ thống kế toán quản trị chi phí Mỹ. kế toán quản trị sử dụng hệ thống kế toán riêng, tách rời hoàn toàn với kế toán tài chính. Hệ thống kế toán quản trị được tổ chức thành bộ máy riêng (phòng kế toán quản trị hay bộ phận kế toán quản trị) sử dụng hệ thống tài khoản kế toán, sổ kế toán và báo cáo kế toán nội bộ tách rời với kế toán tài chính. Kế toán tài chính thu thập, xử lý, lập báo cáo tài chính cung cấp cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Kế toán tài chính tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc, quy định của Nhà nước, trong khi đó kế toán quản trị được coi là công việc riêng của doanh nghiệp, các doanh nghiệp tự xây dựng hệ thông hoá thông tin một cách chi tiết nhằm cung cấp thông tin theo yêu cầu quản lý và tổ chức hệ thống sổ sách, báo cáo phục vụ cho mục tiêu quản trị doanh nghiệp. Cụ thể:

Về chứng từ kế toán: ngoài việc sử dụng hệ thống chứng từ chung, kế toán quản trị chi phí còn sử dụng rộng rãi hệ thống chứng từ nội bộ trong doanh nghiệp

Về tài khoản kế toán: các tài khoản kế toán quản trị chi phí được xây dựng thành hệ thống riêng, có ký hiệu riêng, nội dung ghi chép cũng có những đặc điểm khác với kế toán tài chính

Về sổ kế toán: kế toán quản trị chi phí xây dựng hệ thống sổ kế toán riêng phục vụ cho việc ghi chép các nghiệp vụ thuộc kế toán quản trị

Về báo cáo kế toán: các báo cáo kế toán quản trị được lập riêng dưới dạng báo cáo dự toán sản xuất, báo cáo lỗ lãi từng bộ phận…Ngoài các chỉ tiêu quá khứ, các chỉ tiêu thực hiện kế toán quản trị còn thiết lập các cân đối dự toán, kế hoạch.

Bài học kinh nghiệm tổ chức kế toán quản trị chi phí cho các doanh nghiệp tại Việt Nam

Từ việc nghiên cứu tổ chức kế toán quản trị chi phí ở một số nước trên thế giới giúp chúng ta học hỏi được, tiếp thu được những kinh nghiệm quý báu để vận dụng vào các doanh nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở phân tích thực trạng của hệ thống kế toán của các doanh nghiệp Việt Nam, sự biểu hiện của kế toán quản trị, vận dụng kinh nghiệm của các nước, để tổ chức tốt kế toán quản trị trong các doanh nghiệp hiện nay trước hết phải có sự thống nhất nhận thức về bản chất, nội dung và phạm vi của kế toán quản trị; trên cơ sở đó xác định mô hình tổ chức kế toán quản trị phù hợp.

Trên thực tế, hệ thống thông tin của kế toán chi phí tại các doanh nghiệp hầu hết là thông tin quá khứ. Kế toán chi phí chưa phục vụ cho việc phân tích các mặt hoạt động của doanh nghiệp vào việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, việc xây dựng các phương án lựa chọn các quyết định sản xuất tối ưu. Việc phân loại chi phí sản xuất chưa hướng tới kế toán cung cấp thông tin cho yêu cầu kế toán quản trị doanh nghiệp. Hệ thống tài khoản kế toán đã có sự chi tiết nhưng chưa phù hợp với việc phân tích chi phí theo định phí, biến phí để từ đó có thể phân tích chênh lệch giữa chi phí thực tế và định mức. Việc lập dự toán và định mức các khoản chi phí chưa được quan tâm đúng mức, bởi vậy mà chưa có sự chủ động trong kế hoạch sản xuất, hầu hết phụ thuộc vào đối tác. Công tác phân tích chi phí-khối lượng-lợi nhuận chưa được các doanh nghiệp thực hiện, do vậy thông tin chi phí chưa phát huy tác dụng trong việc lựa chọn những phương án sản xuất tối ưu. Chưa tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp. Công tác kế toán quản trị trong đó có kế toán quản trị chi phí chưa được chú trọng, hệ thống, sổ sách còn rất sơ sài chủ yếu vẫn sử dụng sổ sách chi tiết của kế toán tài chính…Từ việc nghiên cứu và phân tích những vấn đề tồn tại nêu trên cần lựa chọn một mô hình tổ chức kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp tại Việt Nam là điều cần thiết

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hà đông Trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam nên theo mô hình kết hợp kế toán quản trị và kế toán tài chính trong cùng một hệ thống kế toán là phù hợp, bởi mô hình này cho phép kế thừa được những nội dung của kế toán tài chính đã tồn tại và biểu hiện cụ thể trong hệ thống kế toán hiện hành. Thực chất kế toán tài chính và kế toán quản trị đều nghiên cứu sự biến động chi phí và kết quả của hoạt động. Song kế toán quản trị mang nội dung chủ yếu vì nó cung cấp hệ thống thông tin về chi phí để các nhà quản trị đưa ra hàng loạt các quyết định. Mặt khác, việc tồn tại một hệ thống kế toán sẽ tiết kiệm được chi phí trong hạch toán kế toán, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả hơn là áp dụng mô hình tách rời dường như sẽ tốn kém chi phí nhiều hơn so với lợi ích thu được. Điều này cũng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vì chiếm đến 95% các doanh nghiệp hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó phù hợp với trình độ cán bộ kế toán tại các đơn vị, đồng thời đảm bảo thuận lợi cho việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước. Mỗi phần hành kế toán nên phân công nhiệm vụ rõ ràng để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc của nhân viên kế toán, đồng thời tránh sự chồng chéo trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin cho nhà quản trị doanh nghiệp.

Tổ chức phân loại chi phí sản xuất: Hiểu được bản chất của từng yếu tổ chi phí phát sinh, từ đó phân loại chi phí thành biến phí và định phí góp phần kiểm soát chi phí và dự toán chi phí cho kỳ tới, cho các phương án sắp lựa chọn.

Biến phí sản xuất bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu, Chi phí nhân công, Chi phí sản xuất chung như Chi phí công cụ, dụng cụ, nhiên liệu, động lực, chi phí tiền lương nhân viên quản lý phân xưởng ngoài lương cơ bản như khoản chi phí làm thêm giờ, tiền thưởng. Chi phí điện nước, điện thoại phục vụ sản xuất như các khoản tiền phải trả cho lượng điện, nước, điện thoại tiêu hao tại các phân xưởng sản xuất ngoài phần chi phí cố định phải trả hàng tháng

Định phí sản xuất: bao gồm những khoản chi phí mang tính chất cố định hàng tháng phát sinh.
dịch vụ làm báo cáo tài chính tại Hải Phòng
Xây dựng hệ thống tài khoản kế toán: Để tổng hợp và phân tích thông tin kế toán kịp thời và chính xác thì kế toán tài chính nên sử dụng các tài khoản tổng hợp, báo cáo tài chính, còn kế toán quản trị nên sử dụng các tài khoản chi tiết báo cáo bộ phận để thu nhận và xử lý thong tin phục vụ cho việc ra quyết định trong quá trình sản xuất kinh doanh. Xây dựng hệ thống tài khoản chi tiết dựa trên cơ sở hệ thống tài khoản kế toán được Bộ Tài Chính ban hành nhằm phục vụ công tác theo dõi tình hình sản xuất và lập các báo cáo kế toán quản trị là công việc cần thiết đối với các doanh nghiệp may. Để hệ thống hóa và cung cấp thông tin kế toán cho việc lập các báo cáo kế toán quản trị chi phí theo yêu cầu quản lý, các doanh nghiệp cần lựa chọn, thiết kế hệ thống tài khoản chi tiết cấp 2.3.4... cho phù hợp. Việc xây dựng hệ thống tài khoản chi tiết phục vụ yêu cầu quản trị doanh nghiệp cần phải dựa vào yêu cầu quản lý của doanh nghiệp như quản lý theo từng khoản mục chi phí, khoản mục giá thành một cách chi tiết cụ thể theo từng loại sản phẩm, từng đơn đặt hàng...

Tổ chức xây dựng hệ thống báo cáo kiểm soát chi phí: Cần quan tâm trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật và dự toán quá trình sản xuất kinh doanh một cách khoa học, hợp lý, cần quan tâm đến việc phân tích kết quả trong mối quan hệ với chi phí bỏ ra, mọi sự sại lệch đều phải tìm nguyên nhân và bộ phận chịu trách nhiệm để có biện pháp điều chỉnh hợp lý. kịp thời. Mọi trung tâm chức năng đều phải có trách nhiệm với chi phí chứ không chỉ có bộ phận kế toán. Sau đó cần lập Bảng đánh giá tình hình thực hiện định mức chi phí.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại biên hòa Theo Khoa học kiểm toán
[Read More...]


Phương pháp hạch toán cổ phiếu quỹ theo mệnh giá



Việc hạch toán cổ phiếu quỹ cần được thực hiện hoặc theo giá vốn hoặc theo mệnh giá. Nếu có một cách làm khác 2 cách này thì đó không thể được xem là giao dịch cổ phiếu quỹ theo đúng bản chất nghiệp vụ chứng khoán.

Chúng tôi đã giới thiệu phương pháp hạch toán cổ phiếu quỹ theo giá vốn. Trong số này, tác giả giới thiệu phương pháp hạch toán cổ phiếu quỹ theo mệnh giá và nhấn mạnh, nếu có một cách làm khác đi hai cách này, thì đó không thể được xem là giao dịch cổ phiếu quỹ theo đúng bản chất nghiệp vụ chứng khoán.

Với phương thức hạch toán mệnh giá, cổ phiếu quỹ “bị” xem là sẽ được hủy ngay sau giao dịch mua lại

Phương pháp hạch toán

Trong phần “phương thức hạch toán giá vốn”, ta đã biết cách hạch toán giá vốn xem việc mua cổ phiếu quỹ là giao dịch tạm thời giảm vốn chủ sở hữu và việc mua lại này được ghi nhận vào một tài khoản đối ứng với tài khoản vốn chủ sở hữu (tài khoản cổ phiếu quỹ) để giảm nguồn vốn chủ sở hữu.

Với phương thức hạch toán mệnh giá, ta sẽ thấy cách nhìn vấn đề khác hẳn. Theo đó, cổ phiếu quỹ “bị” xem là sẽ được hủy ngay sau giao dịch mua lại. Nguyên tắc chung của cách hạch toán mệnh giá là việc nó tác động trực tiếp đến vốn góp cổ phần, làm giảm ngay vốn mệnh giá (tức cổ phần) và thặng dư vốn trên sổ sách. Nếu giá mua lại cao hơn nguyên giá sổ sách, thì khoản chênh lệch “bất lợi” này sẽ được trừ ngay vào tài khoản lợi nhuận giữ lại.

Cách hạch toán mệnh giá được tiến hành bằng bút tích ghi nợ tài khoản cổ phiếu quỹ khoản mệnh giá, ghi nợ tài khoản thặng dư vốn khoản chênh lệch giữa nguyên giá và mệnh giá và ghi có tài khoản tiền mặt.


Để minh họa, ta lấy ví dụ giống như trường hợp hạch toán giá vốn để tiện so sánh. Doanh nghiệp cổ phần có nguồn vốn chủ sở hữu trong bảng tổng kết kế toán như sau (Bảng 1).

Nguyên giá cổ phiếu theo sổ sách trong ví dụ này là 2 USD/CP (mệnh giá 1 USD, thặng dư vốn 1 USD). Nếu Doanh nghiệp mua lại 1.000 cổ phiếu phổ thông đã phát hành với giá 5 USD/CP (cao hơn nguyên giá 3 USD/CP), thì Doanh nghiệp sẽ thực hiện bút tích nhật ký kế toán như trong Bảng 2.

Cổ phiếu quỹ được ghi nhận đúng với giá trị mệnh giá ban đầu (chưa tách/gộp) là 1.000 USD, tài khoản thặng dư vốn cổ phần được ghi nợ 1.000 USD theo nguyên giá sổ sách. Đồng thời, Doanh nghiệp ghi nợ vào tài khoản lợi nhuận giữ lại 3.000 USD - là chênh lệch giữa giá mua lại và nguyên giá sổ sách (5.000 USD - 2.000 USD). Về nguyên lý, khoản ghi nợ vào tài khoản lợi nhuận giữ lại này (3.000 USD) được xem như phần “cổ tức” phân bổ ngay cho những cổ đông (cho lượng cổ phần) đã rút ra khỏi Doanh nghiệp. Trong khi khoản tiền theo mệnh giá ghi nhận ở tài khoản cổ phiếu quỹ thể hiện sự rút bớt số cổ phiếu đang lưu hành (ở đây là 1.000 cổ phần).

Hiệu lực của phương thức hạch toán theo mệnh giá về cổ phiếu quỹ trên bảng tổng kết kế toán như trong Bảng 3.

Mục tổng nguồn vốn chủ sở hữu đã giảm đi 5.000 USD (vốn mệnh giá giảm 1.000 USD, thặng dư vốn giảm 1.000 USD, lợi nhuận giữ lại giảm 3.000 USD) và còn lại 60.283 USD. Điều này cho thấy, mặc dù có sự khác biệt về chi tiết hạch toán, nhưng nếu so với phương pháp hạch toán giá vốn, thì cả hai đều cho kết quả như nhau. Vậy có thể nói, về mặt tài chính, tuy chi tiết về đường đi nước bước có khác nhau, nhưng cả hai phương pháp đều có cùng đích đến là giảm tiền mặt và giảm nguồn vốn chủ sở hữu.

Về hạch toán, phương pháp mệnh giá làm giảm các tài khoản vốn chủ sở hữu một cách trực tiếp ngay sau giao dịch, mặc dù trong thực tế “cổ phiếu quỹ” vẫn được duy trì cho đến khi thực sự bị hủy bỏ. Trong khi đó, phương pháp hạch toán giá vốn thì chỉ tạm thời làm giảm vốn chủ sở hữu thông qua một tài khoản đối ứng (với tài khoản vốn chủ) và được liệt kê riêng trên bảng cân đối kế toán. Việc giảm vốn tạm thời thông qua tài khoản đối ứng này sẽ được loại trừ khi nào Doanh nghiệp bán lại hoặc hủy hết số cổ phiếu quỹ đã mua.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng Giả định Doanh nghiệp tái phát hành (bán lại) 200 cổ phiếu (trong số cổ phiếu quỹ đã mua) với giá 7 USD/CP (bán cao hơn giá vốn 2 USD/CP). Khi đó, Doanh nghiệp sẽ ghi nợ khoản tiền nhận được vào tài khoản tiền mặt, ghi có vào tài khoản cổ phiếu quỹ khoản mệnh giá ban đầu, ghi có vào tài khoản thặng dư vốn khoản thu cao hơn mệnh giá ban đầu (đối với số cổ phần đã tái phát hành). Giao dịch này rất giống việc phát hành cổ phiếu bình thường, chỉ khác là giao dịch ở đây tính riêng cho các cổ phiếu quỹ (Bảng 4).

Nếu Doanh nghiệp tiếp tục bán lại 300 cổ phiếu với giá 3 USD/CP (bán lỗ so với giá vốn 2 USD/CP), thì các bút toán được ghi nhận như trong Bảng 5. Khi đó, mục vốn chủ sở hữu trên bảng tổng kết kế toán Doanh nghiệp được thể hiện như trong Bảng 6.

Vốn theo mệnh giá tăng lại 500 USD (200 + 300), thặng dư vốn tăng 1.800 USD (1.200 + 600). Cần lưu ý là lợi nhuận giữ lại dù bị trích trừ trước đây không tăng lại, do tiền thu về từ việc tái phát hành cổ phiếu quỹ chỉ làm tăng vốn góp.

Giá trị tổng nguồn vốn chủ sở hữu đến đây bằng đúng với khoản này khi ta dùng phương thức giá vốn. Sự khác biệt của phương thức chủ yếu là việc cổ phiếu quỹ làm giảm trực tiếp giá trị mệnh giá lượng cổ phiếu nguyên thủy. Điều này nhất quán với quan điểm việc mua cổ phiếu quỹ thực hiện theo phương thức mệnh giá được xem như việc hủy bỏ số cổ phần đó. Ở đây, do Doanh nghiệp mua lại 1.000 cổ phiếu và tái phát hành 500 cổ phiếu, giao dịch này thực tế đã làm giảm giá trị mệnh giá cổ phiếu phổ thông là 500 USD, giảm thặng dư vốn nguyên thủy 500 USD và bất cứ khoản nào lớn hơn mệnh giá khi tái phát hành (bán lại) sẽ làm tăng thặng dư vốn (trường hợp này là 1.800 USD).

Cuối cùng, nếu Doanh nghiệp chính thức quyết định hủy 500 cổ phiếu quỹ còn lại thì bút toán ghi nhận sẽ như sau (Bảng 7).

dịch vụ thành lập doanh nghiệp tại bắc ninh Doanh nghiệp ghi có cổ phiếu quỹ để loại bỏ số dư tài khoản này và chuyển khoản giảm vĩnh viễn này vào cổ phần phổ thông (số dư lúc này là 24.500USD). Điểm đáng ghi nhận của phương thức hạch toán mệnh giá là việc nó cho cái nhìn rõ số cổ phiếu bị loại ra khỏi “cuộc chơi” (lượng thực sự lưu hành), là điều mà ở phương thức giá vốn khó thấy.

Kết luận

Việc hạch toán cổ phiếu quỹ cần được thực hiện hoặc theo giá vốn hoặc theo mệnh giá. Nếu có một cách làm khác đi hai cách chính thống đã được trình bày, thì đó không thể được xem là giao dịch cổ phiếu quỹ theo đúng bản chất nghiệp vụ chứng khoán. Yêu cầu mạch lạc thể hiện trong hạch toán theo cách thế giới như vậy giúp hạn chế cách hiểu diễn dịch, cách làm áng chừng, là cơ sở cho hiệu lực quản lý tốt hơn và thị trường sẽ nhận được thêm niềm tin.

Huy Nam, CV Kinh tế Tài chính CK - Giảng viên CFO, PFA /PACE
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại đà nẵng Theo Đầu tư chứng khoán

[Read More...]


Cần cái nhìn chuẩn xác về kế toán viên chuyên nghiệp



Tại Việt Nam, thuật ngữ kế toán viên chuyên nghiệp vẫn chưa thật sự được phổ biến rộng rãi. Thậm chí, đối với những người làm trong ngành kế toán, kiểm toán, khái niệm này cũng chưa được nhìn nhận một cách rõ ràng.

Có một thực tế là bất kỳ ai có bằng cử nhân kế toán, kiểm toánlàm công việc liên quan đến kế toán, kiểm toán đều có thể tự gọi mình là kế toán viên, kiểm toán viên. Không nhiều người thực sự biết rằng, một kế toán viên chuyên nghiệp cần phải tuân thủ những quy chuẩn nhất định, phải là hội viên hội nghề nghiệp hoặc có chứng chỉ hành nghề. Nhận thức chưa đầy đủ về ngành nghề đã đưa đến một thực tế là tại Việt Nam, các trường đại học đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực tài chính, kế toán và kiểm toán. Trong khi đó, tại các quốc gia mà ngành kế toán, kiểm toán phát triển thì nguồn cung nhân lực cho thị trường này không chỉ là cử nhân của các trường đại học mà phần lớn là đối tượng theo học và được trang bị những chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế.

Theo đánh giá của các DN tại Việt Nam, việc dạy và học kế toán, kiểm toán của các trường đại học tại Việt Nam ít gắn với những tình huống thực tiễn của DN. Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành kế toán, kiểm toán ít người có thể áp dụng những gì mình đã học được ở nhà trường vào công việc thực tế. Các DN, nhà tuyển dụng, đặc biệt là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam chia sẻ rằng họ gặp khó khăn khi tìm cho mình những chuyên gia kế toán vừa ý, càng khó khăn hơn khi tìm những kế toán có trình độ cao như giám đốc tài chính, kế toán trưởng…

Ở những quốc gia phát triển, hay gần hơn là các nước trong khu vực, các công ty thường ưu tiên tuyển dụng những nhân sự được trang bị chứng chỉ nghề nghiệp hơn là chỉ có bằng đại học. Hoặc nếu tuyển dụng sinh viên vừa tốt nghiệp đại học, các công ty sẽ có chính sách đào tạo và huấn luyện riêng cũng như cho nhân viên theo học các chứng chỉ nghề nghiệp chuyên môn của các hiệp hội nghề nghiệp.

Có thể nói, việc sở hữu bằng cấp nghề nghiệp trong lĩnh vực này là bắt buộc đối với các cá nhân hành nghề và khi DN tuyển dụng một cá nhân có bằng cấp nghề nghiệp chuyên nghiệp của một tổ chức uy tín trên thế giới, họ có thể hoàn toàn yên tâm về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cũng như tư cách đạo đức của nhân viên, vì những điều này đã được hội nghề nghiệp thẩm định và đảm bảo.

Thông qua sự kết nối chặt chẽ với hơn 8.500 DN đối tác có tên tuổi hoạt động khắp thế giới, có tiêu chuẩn cao về đào tạo và phát triển nhân viên, ACCA luôn lắng nghe nhu cầu và mong muốn của DN về những kiến thức, kỹ năng của nhân sự kế toán, kiểm toán mà DN cần, từ đó, xây dựng và cập nhật các môn học kịp thời cùng với sự thay đổi của ngành nghề trên thế giới. Các môn học ACCA được rà soát, đảm bảo tính cập nhật và thiết thực, gắn kết với yêu cầu và mong đợi của các DN cũng như phù hợp với luật lệ của các nước. ACCA đã địa phương hóa giáo trình, như đưa vào môn Tài chính Hồi giáo, bổ sung thêm nhiều chọn lựa trong 2 môn Luật và Thuế, chẳng hạn như học viên có thể chọn học luật và thuế Việt Nam, từ đó ứng dụng ngay kiến thức đã học vào công việc mà không cần phải học lại.

ACCA cũng gia tăng lượng kiến thức, kỹ năng trong môn học Quản trị, Quản lý rủi ro và đạo đức nghề nghiệp nhằm cung cấp thêm kiến thức liên quan trong việc giám sát thực hiện, kiểm soát nội bộ, tuân thủ và quản trị rủi ro của một tổ chức trong khuôn khổ đạo đức nghề nghiệp.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh Các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế được đưa vào giảng dạy trong giáo trình ACCA. Toàn bộ giáo trình học bằng tiếng Anh. Phương pháp học giúp trang bị cho học viên những kiến thức từ cơ bản cho đến chuyên sâu. Không chỉ học lý thuyết, học viên còn được vận dụng các kỹ năng thực hành vào các ví dụ cụ thể và sinh động, do đó, chương trình được đánh giá là rất phù hợp với nhu cầu của các nhà tuyển dụng cho đội ngũ nhân viên kế toán - tài chính của các DN. Ngoài ra, giảng viên của ACCA đa phần là những chuyên gia đã được các tổ chức nghề nghiệp uy tín công nhận, và có kinh nghiệm làm việc thực tiễn. Chính những yếu tố này giúp các học viên hoàn tất chương trình ACCA tự tin hòa nhập vào mội trường làm việc tại các DN.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại nam định Bằng việc chú trọng đến nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy mạnh sự nhận thức của xã hội về ngành nghề, ACCA luôn nỗ lực để có thể đóng góp vào sự phát triển của nghành kế toán – kiểm toán- tài chính Việt Nam, hướng tới việc phát triển nguồn nhân lực ngang tầm khu vực và quốc tế.

Theo thống kê của Hiệp hội Kế toán công chứng Anh quốc (ACCA), 24% trong tổng số 154.000 hội viên ACCA trên toàn thế giới làm việc trong dịch vụ kế toán, kiểm toán; 16% làm việc trong khu vực công và 60% làm việc đang làm trong các DN với các vị trí quản lý tài chính, kế toán, đầu tư... Sau 10 năm hiện diện tại Việt Nam, ACCA đã đóng góp vào nguồn lực kế toán, kiểm toán và tài chính của Việt Nam với hơn 5.500 học viên đang theo học chương trình ACCA và 500 hội viên, chiếm tỷ trọng đáng kể trong số 2.044 kiểm viên chuyên nghiệp tại Việt Nam.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại hải phòng Theo Tinnhanhchungkhoan

[Read More...]


Báo động "né" quyết toán vốn xây dựng cơ bản



Theo Sở Tài chính cho biết, hiện có 83 dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng với tổng mức đầu tư trên 7.028 tỷ đồng nhưng chủ đầu tư chậm quyết toán trên 6 tháng.

Trong đó có 53 dự án chậm quyết toán từ 7 đến 24 tháng, 30 dự án chậm trên 24 tháng. Đơn vị có nhiều dự án chậm quyết toán nhất là Sở Xây dựng với 35 dự án, kế đến là Sở GTVT 18 dự án.
Phó Chủ tịch UBND TP Nguyễn Huy Tưởng cho rằng, nếu quyết toán đúng thời hạn, chỉ khoảng 50 dự án, TP đã có thể tiết kiệm được 5 tỷ đồng. Điều đáng lo ngại là việc chậm quyết toán phần lớn là ở các dự án lớn. Bởi chỉ có 83 dự án mà chậm quyết toán đến trên 7.000 tỷ đồng, trong khi từ đầu năm đến nay cả TP có 444 dự án đã hoàn thành và quyết toán, tổng số tiền chỉ có 1.652 tỷ đồng.

Đến nay, toàn TP có tới 865 dự án với số vốn tạm ứng từ ngân sách TP tới hàng ngàn tỷ đồng chưa được hoàn trả. Trong đó có trên 1.476 tỷ đồng vốn tạm ứng từ năm 2004. Mục đích tạm ứng vốn của TP cho các dự án có tính chất cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết từ cuộc sống, nhưng đã bị một số chủ đầu tư lợi dụng. Đại diện Sở Tài chính chỉ rõ: "Nằm trong số chậm hoàn trả nhất là các dự án điện, nước.

Sau khi dự án được hoàn thành, chủ đầu tư vẫn cố tình tránh việc bàn giao". Có thể thấy, tình trạng né tránh, kéo dài hoàn trả vốn nhằm mục đích chiếm hữu và sử dụng trái phép nguồn vốn không phải chịu lãi.

Nguyên nhân của tình trạng nói trên trước tiên là ý thức, trách nhiệm của chủ đầu tư. Họ đã cố tình không chấp hành các quy định về tài chính để trục lợi, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Quá trình triển khai đầu tư chưa thực hiện đúng quy trình, thủ tục quản lý đầu tư xây dựng công trình, không xử lý kịp thời phát sinh, vướng mắc để có đầy đủ điều kiện lập hồ sơ báo cáo quyết toán ngay khi công trình hoàn thành.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại long biên Khi công trình hoàn thành đưa vào sử dụng, chủ đầu tư lại không tích cực hoàn chỉnh hồ sơ quyết toán theo đúng thời hạn quy định của Bộ Tài chính. Chất lượng một số hồ sơ còn hạn chế... Rất khó để phán xét rằng chủ đầu tư non kém về chuyên môn nên không làm tốt hồ sơ hay cố tình làm như vậy. Chỉ khi các cơ quan bảo vệ pháp luật vào cuộc, may ra mọi việc mới có thể được làm sáng tỏ,

Tuy nhiên, theo các chuyên gia của Sở Tài chính, một số sở, ngành, quận, huyện trong vai trò chủ đầu tư theo quyết định phê duyệt của UBND TP đồng thời với vai trò quản lý nhà nước theo phân cấp và quản lý chủ đầu tư (ban quản lý dự án trực thuộc) đã gây ra tình trạng rối rắm trong chỉ đạo lập hồ sơ quyết toán.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại cầu giấy Bên cạnh đó, các dự án có sự thay đổi chủ đầu tư trong quá trình thực hiện, hoặc sau khi đã hoàn thành chưa quyết toán, nhưng công tác lưu trữ và bàn giao hồ sơ không được thực hiện nghiêm túc. Bằng chứng là chỉ riêng việc báo cáo tình trạng chậm quyết toán của các dự án thuộc phạm vi quản lý mà có tới 28/72 sở, ngành, quận, huyện không làm đúng yêu cầu.

Nguyên nhân nữa phải kể đến là việc xác định trách nhiệm cụ thể và tổ chức bộ phận chuyên trách thực hiện công tác quyết toán trong các ban quản lý chưa được chú trọng và chưa được chỉ đạo quyết liệt. Nếu cứ "mềm dẻo" như vậy, liệu có ai dám chắc những vi phạm nghiêm trọng hơn sẽ không phát sinh?
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc giang Theo Hanoimoi

[Read More...]


Nguy cơ báo lỗ của Petrolimex trong quý IV



Cho rằng giá bán lẻ xăng dầu trong nước có định mức chi phí thấp hơn nhiều so với thực tế, Petrolimex dự báo quý IV, tập đoàn có thể không lãi, thậm chí lỗ.

Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) vừa yêu cầu các công ty xăng dầu thành viên tăng cường áp dụng các giải pháp, thực hiện triệt để công tác tiết giảm chi phí quý IV để tiết kiệm chi phí 137 tỷ đồng đã đăng ký với Nhà nước.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hà đông
Yêu cầu trên được đưa ra trong bối cảnh số liệu quyết toán 9 tháng năm của tập đoàn cho thấy lợi nhuận hoạt động kinh doanh xăng dầu tại thị trường nội địa rất thấp so với kế hoạch năm 2012 đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua.

Petrolimex dự báo quý IV sẽ còn rất khó khăn, tập đoàn có thể không lãi, thậm chí lỗ do Nhà nước vẫn đang vận hành giá bán lẻ xăng dầu trong nước với định mức chi phí thấp hơn nhiều so với chi phí thực tế, giảm sử dụng quỹ bình ổn giá, và có giai đoạn tiết giảm cả lợi nhuận định mức. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam yêu cầu các đơn vị triển khai chủ trương phát triển sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ Petrolimex như dầu mỡ nhờn, gas, sơn... để khắc phục khó khăn.
dịch vụ thành lập doanh nghiệp tại hoàn kiếm
Trước đó, theo báo cáo tài chính hợp nhất quý III và 9 tháng đầu năm, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam có lợi nhuận sau thuế 9 tháng là 796 tỷ đồng, trong đó lợi nhuận của cổ đông công ty mẹ là 621 tỷ đồng. Lãi cơ bản trên cổ phiếu là 580 đồng. Trong cơ cấu tổng doanh thu của Petrolimex, doanh thu nội địa chiếm tỷ trọng 79% và doanh thu xuất khẩu, tái xuất, chuyển khẩu là 21%. Theo thuyết minh báo cáo tài chính của Petrolimex, trong cơ cấu lợi nhuận trước thuế 9 tháng của Tập đoàn, mảng kinh doanh xăng dầu lãi trên 58 tỷ đồng.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Theo Tinnhanhchungkhoan

[Read More...]


Lợi nhuận năm 2012, doanh nghiệp lớn vẫn khẳng định vị thế



Năm 2012, khó khăn bao trùm, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chứng tỏ “sức đề kháng” của mình khi hoàn thành, thậm chí vượt khá xa các chỉ tiêu kinh doanh.

Đây chủ yếu là những doanh nghiệp lớn, đại diện tiêu biểu cho các doanh nghiệp trong ngành.

Trao đổi với ĐTCK, ông Nguyễn Sỹ Thắng, Chủ tịch HĐQT Tổng CTCP Khí hóa lỏng Miền Nam (PGS) cho biết, năm 2012, Công ty dự kiến hoàn thành 110% kế hoạch doanh thu và 105% kế hoạch lợi nhuận trước thuế, tương đương đạt khoảng 6.652 tỷ đồng doanh thu và 212 tỷ đồng lợi nhuận.

Theo ông Thắng, xu hướng của người tiêu dùng hiện nay là tìm đến các sản phẩm tiết kiệm chi phí, điều này cũng dẫn đến việc tiêu thụ các sản phẩm gas chậm hơn. Tuy nhiên, với PGS, Công ty đang kinh doanh sản phẩm khí LPG và CNG, hai sản phẩm này sẽ bổ trợ cho nhau. Về kế hoạch kinh doanh năm 2013, PGS dự kiến đặt mục tiêu tăng trưởng 10% so với mức thực hiện năm 2012.


GAS ước đạt lợi nhuận 11.068 tỷ đồng năm 2012, vượt 72% kế hoạch

Ngoài PGS, ngành dầu khí còn có những cái tên rất “nổi” khi nhắc đến hiệu quả kinh doanh như CTCP PV Gas (GAS), Tổng CTCP Phân bón và Hoá chất Dầu khí (DPM), Tổng CTCP Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí (PVD), Tổng CTCP Kỹ thuật dầu khí (PVS)… Trong năm 2012, GAS ước đạt lợi nhuận 11.068 tỷ đồng, vượt 72% kế hoạch. Còn DPM, PVD, PVS là những doanh nghiệp có kết quả kinh doanh vượt kế hoạch năm 2012 khi mới kết thúc 3 quý đầu năm.

Lãnh đạo PVS cho biết, chắc chắn sẽ vượt chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận năm 2012 (doanh thu 25.000 tỷ đồng và lợi nhuận hợp nhất trước thuế 950 tỷ đồng). Trong đó, doanh thu từ các dịch vụ cung ứng tàu chuyên dụng, dịch vụ căn cứ cảng dầu khí, dịch vụ khảo sát địa chấn, địa chất công trình và khảo sát sửa chữa công trình ngầm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu và đều có sự tăng trưởng mạnh. Công ty đang cân nhắc xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2013 đạt tương đương hoặc tăng trưởng nhẹ so với năm 2012, do nhận định năm 2013 tiếp tục là một năm khó khăn.

“Hiện tại, PVS đang tập trung hoàn tất đợt tăng vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng lên 4.500 tỷ đồng, để có vốn đầu tư vào các dự án cốt lõi của Công ty trong thời gian tới”, lãnh đạo PVS nói.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh Nói đến những doanh nghiệp lớn kinh doanh hiệu quả, không thể không nhắc đến CTCP Sữa Vinamilk (VNM). Dự kiến, đến hết năm 2012, VNM sẽ đạt tổng doanh thu 26.500 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế vượt con số 5.620 tỷ đồng. Ngày 21/12 tới, VNM sẽ chốt danh sách cổ đông để thưởng cổ phiếu với tỷ lệ 50% (tương đương với giá trị phát hành tính theo mệnh giá là 2.780 tỷ đồng).

Đối với ngành dược phẩm, hoạt động của các doanh nghiệp tương đối ổn định và đang thực hiện theo đúng kế hoạch. Bà Đặng Phạm Huyền Nhung, Kế toán trưởng CTCP Dược phẩm Hậu Giang (DHG) chia sẻ, Công ty đang tập hợp số liệu để làm báo cáo tài chính năm 2012. Về chỉ tiêu kế hoạch doanh thu thuần 2.700 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 505 tỷ đồng, chắc chắn DHG sẽ hoàn thành.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp tại hai bà trưng Tương tự, ông Nguyễn Quốc Định, Phó tổng giám đốc CTCP Dược phẩm Imexpharm (IMP) khẳng định, trong năm nay, IMP sẽ hoàn thành so với kế hoạch lợi nhuận trước thuế mà Công ty đã đặt ra là 115 tỷ đồng. Theo lãnh đạo IMP, một trong những mục tiêu quan trọng của IMP là rà soát các chi phí hoạt động, giá thành sản xuất nhằm đảm bảo nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty.

Thông thường, các doanh nghiệp tỏ ra thận trọng khi đưa ra con số kết quả kinh doanh dự kiến. Những doanh nghiệp “dám” chia sẻ thông tin sớm chủ yếu là doanh nghiệp kinh doanh tốt, không bị ảnh hưởng nhiều bởi tình hình khó khăn chung của thị trường. Trên TTCK, cổ phiếu của những doanh nghiệp này giữ được sự ổn định, thậm chí tăng giá, dù thị trường có diễn biến xấu.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức Theo Tinnhanhchungkhoan

[Read More...]


Xăng có thể giảm 500 đồng/lít nhưng bị lờ đi



Giá xăng dầu thế giới tiếp tục giảm mạnh nhưng như bao lần khác, giá trong nước vẫn đủng đỉnh. Nguyên nhân chính là do quy định quá lạc hậu của nghị định 84 về kinh doanh xăng dầu.

Đáng nói là nhiều lần lãnh đạo các bộ ngành đã thừa nhận sự lạc hậu này nhưng việc sửa đổi vẫn trì hoãn.

Các chuyên gia trong lĩnh vực xăng dầu cho rằng việc chậm sửa đổi nghị định 84 sẽ khiến giá xăng không minh bạch, từ đó chỉ mang lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ những người trong ngành xăng dầu, trong khi người tiêu dùng và ngay cả các đại lý bán lẻ xăng dầu cũng phải chịu thiệt.

Có thể giảm ngay 500 đồng/lít

Theo các doanh nghiệp đầu mối xăng dầu, hai tuần trở lại đây giá xăng A92 nhập khẩu tại Singapore đã có xu hướng giảm. Trong khoảng 10 ngày qua, đa số phiên giao dịch đều chốt giá ở mức 111-113 USD/thùng. Giá nhập khẩu trên khi nhập VN cộng thêm các khoản thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, các khoản phí và chi phí kinh doanh định mức... vào khoảng 22.250 đồng/lít. Với giá bán lẻ hiện nay đối với xăng A92, chênh lệch giữa giá đầu vào và đầu ra là 900 đồng/lít.

Như vậy, rõ ràng các doanh nghiệp đầu mối đã có lời. Tuy nhiên, do quy định giá cơ sở phải tính trong khoảng thời gian trung bình 30 ngày kể từ ngày chốt giá trở về trước nên một số doanh nghiệp cho rằng mới chỉ hòa vốn.

Do thực tế doanh nghiệp đầu mối đang có lãi nên đã mạnh dạn tăng mức chiết khấu cho các đại lý. Nhiều đại lý xăng dầu khẳng định chiết khấu ở mặt hàng xăng A92 đã lên tới 770 đồng/lít và dầu lên tới 850 đồng/lít.

Một số doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu cho rằng nếu nghị định 84 đã được sửa để giá bán lẻ xăng dầu trong nước diễn biến sát giá thế giới hơn thì thời điểm này, giá bán lẻ xăng A92 đã có thể giảm được khoảng 500 đồng/lít, quyền lợi với người tiêu dùng được đảm bảo và doanh nghiệp đầu mối, đại lý xăng dầu cũng không bị thiệt thòi.



Không nên chần chừ

Nghị định 84 về hoạt động kinh doanh xăng dầu có hiệu lực từ tháng 12-2009. Suốt từ đó đến nay, giới kinh doanh xăng dầu, đặc biệt các đại lý, doanh nghiệp tư nhân bán lẻ xăng dầu, đã kêu than về những điểm bất hợp lý khiến quyền lợi của số đông không được đảm bảo.

Từ giữa năm 2011, trong nhiều cuộc họp liên quan đến lĩnh vực xăng dầu, lãnh đạo Bộ Tài chính, Bộ Công thương đã thừa nhận nghị định 84 có nhiều điểm lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình thực tế, cần sửa đổi. Tuy nhiên, suốt từ đó đến nay vẫn chưa thấy bóng dáng của "nghị định 84 mới".

Ông Phạm Quốc Tuấn, Công ty TNHH V.P.I (doanh nghiệp cung cấp nhiều dịch vụ trong ngành xăng dầu), cho rằng quy định giá cơ sở 30 ngày cản trở sự linh hoạt của thị trường xăng dầu. Theo ông Tuấn, giá cơ sở nên đưa về mức tính trung bình trong khoảng 10 ngày kể từ ngày chốt giá trở về trước.

Như vậy, giá trong nước sẽ được điều chỉnh (cả tăng và giảm) sát với giá thế giới hơn. Chu kỳ của giá xăng nhập khẩu tại Singapore cũng thường ở khoảng thời gian 10 ngày chứ không kéo dài 30 ngày.

Theo ông Tuấn, bên cạnh việc sửa khoảng thời gian tính giá cơ sở, một trong những điểm quan trọng là minh bạch giá cả bằng việc sửa lại phần chi phí định mức kinh doanh (hiện là 600 đồng/lít), tránh như hiện nay doanh nghiệp đầu mối cho biết mức 600 đồng không đủ, từ đó khó xác định họ lỗ lãi như thế nào. Việc nâng mức chi phí kinh doanh định mức sẽ phải đi kèm là mức chiết khấu cho đại lý được nâng lên, đồng thời quy định mức tối thiểu.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại quận thủ đức Hiện do không có mức quy định rõ, việc điều hành giá lại cứng nhắc khiến đại lý xăng dầu luôn ở thế bị động, phụ thuộc hoàn toàn vào doanh nghiệp đầu mối.

Theo các chuyên gia xăng dầu, bên cạnh những điểm bất hợp lý trên, nghị định 84 còn gây cản trở quyền lợi của người tiêu dùng và số đông đại lý bán lẻ xăng dầu ở điểm không có cạnh tranh. Vì thế cần sớm tăng cường tính cạnh tranh ở thị trường xăng dầu cho cả giới đại lý bán lẻ và doanh nghiệp đầu mối.

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong cho rằng nghị định 84 cần được sửa đổi để giải bài toán minh bạch giá xăng dầu theo nguyên tắc thị trường với mục tiêu giảm thiểu tình trạng xin - cho và khuyến khích cạnh tranh. Đi vào chi tiết, ông Phong cho rằng khi sửa nghị định 84 cần rà soát, hoàn thiện những quy định liên quan đến chỉ tiêu kỹ thuật và chi phí hoạt động của ngành xăng dầu, công khai thông tin và khuyến khích phản biện của những người am hiểu thị trường để đưa ra được chính sách quản lý, điều hành hài hòa lợi ích các bên, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.

Petrolimex thừa nhận đã có lãi
dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại bắc ninh
Trao đổi với chúng tôi, ông Trần Ngọc Năm, phó tổng giám đốc Petrolimex, thừa nhận nếu tính theo đúng quy định (chi phí định mức kinh doanh xăng dầu đối với mặt hàng xăng là 600 đồng/lít, mazut là 400 đồng/kg) thì xăng đang lãi gần 200 đồng/lít, các mặt hàng dầu lãi khoảng 500 đồng/lít, kg. Tuy nhiên định mức trên thấp hơn so với chi phí thực tế rất nhiều, liên bộ Tài chính - Công thương đã dự kiến điều chỉnh định mức từ 600 đồng/lít lên 860 đồng/lít (chưa kể các vùng sâu vùng xa được cộng thêm chi phí) nên thực tế xăng Petrolimex vẫn lỗ gần 100 đồng/lít. Riêng các mặt hàng dầu thì lãi trên 200 đồng/lít, kg.

Về việc sửa nghị định 84 để giá trong nước tiến sát giá thế giới, ông Trần Ngọc Năm cho rằng "nên sửa quy định về thời gian dự trữ lưu thông bắt buộc từ 30 ngày hiện tại xuống 20 ngày". Ông Năm cho rằng mức 20 ngày là phù hợp với thực tế VN vì nay đã có Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Với công suất hiện tại, Dung Quất có thể tham gia dự trữ, khi cần sẽ xuất xăng dầu ra đảm bảo nguồn cung cho thị trường.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại nam định Theo Tuoitre
[Read More...]


TRUNG TÂM KẾ TOÁN HÀ NỘI

Return to top of page