Những bước cơ bản để bạn thành công trong công việc kế toán



Công việc kế toán yêu cầu bạn có một kiến thức tốt về chuyên ngành, quyết tâm mãnh liệt cùng kinh nghiệm làm việc tất cả đều vô cùng quan trọng để thành công. Dịch vụ kế toán ABC hướng dẫn bạn các bước cơ bản cần có của một nhân viên kế toán thành công.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng

1. Yêu thích các con số

Kế toán là làm việc với các con số và sự vận dụng tới các con số. Vì thế, bạn phải chắc chắc rằng bạn có khả năng tốt về môn toán ở trường học. Bạn phải có một niềm say mê khám phá những con số tưởng chừng rất khô khan trong các bản báo cáo. Tự bản thân bạn luôn thấy rằng những phép tính, những phương pháp đối chiếu, cân đối…

2. Thường xuyên cập nhật thông tin về các chương trình kế toán, chính sách thuế mới.

Chính sách thuế, kế toán luôn thay đổi, bạn phải luôn cập nhật những điểm mới đó và tìm cho mình những cẩm nang kế toán thuế chất lượng. Và một điều quan trọng khác là bạn cần chắc chắn rằng chương trình kế toán bạn đăng ký phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của luật hay quy định của nhà nước, nếu không bạn phải đối mặt với các vấn đề có khi bắt đầu công việc với nghề kế toán sau này.

dịch vụ làm báo cáo tài chính cuối năm tại Quận 10
3. Tham gia thi nhận bằng cấp quốc tế trong lĩnh vực kế toán.

Để trở thành một kế toán được công nhận, bạn phải nhận được chứng chỉ kế toán được chấp nhận (hay còn gọi là chứng chỉ kế toán công - nhưng mình không biết gọi như vậy có nói được hết nghĩa của nó hay không nên tạm gọi như trên), CPA của Bộ tài chính chẳng hạn. Các yêu cầu để có được chứng chỉ CPA là trước tiên bạn phải tốt nghiệp một khóa học về kế toán hoặc liên quan đến kinh doanh tại một trường đại học. Kiểm tra thông tin các yêu cầu về CPA sẽ giúp bạn có những chuẩn bị những gì cần phải được thực hiện trong chương trình cử nhân kế toán.

4. Chọn lĩnh vực kế toán mình yêu thích

Có một vài điểm để khởi đầu cho nghề kế toán của bạn, bạn có thể làm việc với chuyên ngành kế toán công, kế toán hành chính, kế toán doanh nghiệp, và kế toán quản trị hay kiểm toán nội bộ. Không có chương trình cử nhân kế toán nào sẽ đào tạo bạn tất cả các chuyên ngành trên; bạn cần chọn lĩnh vực mà bạn quan tâm nhất và chọn có thể chuyên ngành chính mà mình nghiên cứu.

5. Thông thạo phần mềm kế toán

Hiện nay, để thành công trong công việc kế toán bạn không những cần thành thạo các phần mềm exel cơ bản mà bạn cần phải hiểu biết và sử dụng thành thạo phần mềm kế toán. Bạn không thể học tất cả phần mềm kế toán trên thị trường, nhưng bạn cần biết cơ bản về những phần mềm kế toán việt phổ biến đang được sử dụng trong các công ty hiện nay.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại đà nẵng
Theo Dịch vụ kế toán
[Read More...]


Hướng dẫn chế độ kế toán đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa



Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng quy định liên quan đến chế độ kế toán đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.


lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại đống đa
Hỏi: Tôi là nhân viên kế toán trong công ty xây dựng có vốn điều lệ 5 tỷ đồng, thành lập tháng 08/2015. Tôi đã áp dụng Thông tư 200 trong hạch toán kế toán, hệ thống sổ sách và đã nộp Báo cáo tài chính năm 2015. Tháng 04/2016, cơ quan quản lý thuế của công ty thông báo công ty đã áp dụng sai chế độ kế toán và yêu cầu chuyển sang Quyết định 48, nộp bổ sung báo cáo tài chính trước khi thanh tra vào tháng 06/2016. Vậy, Công ty tôi có thể áp dụng chế độ kế toán theo Thông tư 200 hay không?

Về việc này, Bộ Tài chính có hướng dẫn như sau:

Tại Điều 1 Thông tư số 200/2014/TT-BTC quy định: “Thông tư này hướng dẫn kế toán áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang thực hiện kế toán theo Chế độ kế toán áp dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ được vận dụng quy định của Thông tư này để kế toán phù hợp với đặc điểm kinh doanh và yêu cầu quản lý của mình.”

dịch vụ làm báo cáo tài chính tại Biên Hòa Đồng Nai Tại Điều 4 Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC quy định: “... Doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 (nay là Thông tư số 200/2014/TT-BTC) phải thông báo cho cơ quan thuế quản lý doanh nghiệp và phải thực hiện ổn định ít nhất trong thời gian là 2 năm. Trường hợp chuyển đổi trở lại áp dụng Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải thông báo lại cho cơ quan thuế.”

Căn cứ các quy định trên, doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể lựa chọn áp dụng Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành theo Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC hoặc Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC. Khi doanh nghiệp nhỏ và vừa lựa chọn áp dụng Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC thì phải thông báo cho cơ quan thuế quản lý doanh nghiệp và phải áp dụng ổn định ít nhất trong thời gian 2 năm theo quy định.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại vĩnh phúc
Theo tapchitaichinh
[Read More...]


Nên theo chuẩn mực quốc tế khi minh bạch báo cáo tài chính nhà nước



Ngày 20-11-2015, Quốc hội đã thông qua Luật Kế toán và có hiệu lực từ ngày 1-1-2017. Điều 30 Luật Kế toán có quy định về báo cáo tài chính nhà nước và giao cho Chính phủ quy định cụ thể về nội dung báo cáo tài chính nhà nước. Luật cũng ra thời hạn để Chính phủ thực hiện việc này là chậm nhất là 24 tháng, kể từ ngày Luật Kế toán có hiệu lực. Trên cơ sở đó, mới đây Bộ Tài chính đã công bố dự thảo Nghị định về báo cáo tài chính nhà nước để lấy ý kiến đóng góp. TBKTSG ghi lại ý kiến của các chuyên gia về dự thảo này với nhiều góc nhìn khác nhau.

Theo dự thảo nghị định về báo cáo tài chính nhà nước, nghị định này được áp dụng cho mọi cơ quan nhà nước, tuy nhiên theo điều 1 của dự thảo chỉ viết “công khai báo cáo tài chính nhà nước” và cụ thể hơn điều 15 chỉ nói đến tỉnh, Bộ Tài chính “công khai các thông tin chủ yếu trong báo cáo tài chính” liên quan đến “tình hình tài sản nhà nước; nợ chính quyền địa phương, các khoản phải trả khác của Nhà nước; nguồn vốn của Nhà nước; tình hình thu nhập, chi phí và kết quả hoạt động tài chính nhà nước; tình hình lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính nhà nước”. Ngoài tỉnh và Bộ Tài chính, các cơ quan chính phủ và địa phương không bị bắt buộc công khai ngân sách, ngoài trách nhiệm cung cấp thông tin. Đây là một thiếu sót lớn, nhất là khi việc thu chi ngân sách ở cấp quận huyện, xã dựa vào nhiều quy định cho phép tự thu, tự chi, gây nhiều khó khăn cho đời sống của dân chúng.

Dự thảo nghị định yêu cầu báo cáo nhiều nội dung quan trọng khác như giá trị tài sản nhà nước; nợ và các khoản phải trả, và nghĩa vụ trả nợ; nguồn vốn cho hoạt động; lưu chuyển tiền mặt. Những thông tin này không có trong “công khai ngân sách” được Bộ Tài chính thực hiện và đưa trên mạng của bộ, nên rất đáng hoan nghênh.

Tuy nhiên, công khai báo cáo tài chính chỉ thực sự có giá trị ở chi tiết, và phương pháp luận được sử dụng để làm báo cáo tài chính. Với tinh thần chỉ công khai “các thông tin chủ yếu” như dự thảo viết thì giá trị kiểm tra rất hạn chế.

Có thể dễ nhìn thấy hạn chế này khi đem so sánh những gì đã và sẽ làm ở Việt Nam với dự thảo ngân sách của chính phủ Mỹ nộp cho Quốc hội xem xét hàng năm. Dự thảo ngân sách của Mỹ là một núi tài liệu, bao gồm: a) bản tường trình chính của Tổng thống về Ngân sách dự thảo tổng hợp có giải trình dài 182 trang, b) bản phân tích có so sánh với những năm trước 418 trang, c) phụ chú thu chi của từng bộ và cơ quan nhà nước 1.375 trang. Tổng cộng gần 2.000 trang.

Kinh nghiệm làm việc ở Liên hiệp quốc của tôi cũng thế, ngân sách dự chi được chi tiết hóa theo hàng rất cụ thể (line budgeting) trong mọi hoạt động. Nếu hoạt động không có khoản ngân sách chi tiền di chuyển bằng máy bay thì không thể lấy tiền được từ bộ phận chi tiền. Đây là cách duy nhất kiểm soát chi tiêu của nhà nước.

Về phương pháp luận thì kinh nghiệm của Hy Lạp đã dạy cho thế giới một bài học lớn. Như ta biết, điều kiện để trở thành thành viên của khối tiền tệ Euro là thâm hụt ngân sách không được quá 3% và nợ công không được quá 60% GDP. Chính vì Hy Lạp muốn nhập khối Euro nên đã lừa dối trong phương pháp làm ngân sách và Liên hiệp châu Âu cũng vì muốn một nước kỳ cựu của nền văn minh phương Tây gia nhập nên đã lơ là kiểm soát. Năm 2000 Hy Lạp đã được gia nhập Euro với báo cáo thâm hụt ngân sách 2,5% vào năm 1998 và dự báo 1,9% vào năm 1999, trong khi sự thật thì thâm hụt trong 1998 đã là 4,2%. Đến năm 2009, mức thâm hụt lên 13%, dẫn đến khủng hoảng trả nợ lớn ở châu Âu.

Tại sao Hy Lạp có thể làm thế? Đó là vì họ bỏ phần chi tiêu lớn cho vũ khí quân sự khỏi ngân sách, ghi bán quyền sử dụng tần số trên bầu trời cho các hãng điện thoại là thu ngân sách thường xuyên trong khi đó nó là bán tài sản đang có (và chỉ bán được một lần) và các vi phạm khác như lập một công ty tài chính độc lập ở nước ngoài (mà không ai biết đến) để vay tiền, tiền này được chuyển về đóng góp đầu tư. Điều này cũng giống như cách làm không theo chuẩn quốc tế của Việt Nam hiện nay, là đáng lẽ phải ghi là chi khi nhận được hàng hay việc được thực hiện dù chưa trả tiền... Và Việt Nam cũng phạm lỗi như Hy Lạp: không thể ghi tiền bán quyền sử dụng đất là thu ngân sách thường xuyên, mà phải ghi là bán tài sản.
dịch vụ làm báo cáo tài chính tại Quận 9
Cần một ngân sách nhà nước trong sạch để bảo đảm nền kinh tế vận hành hiệu quả, tránh đưa nền kinh tế vào khủng hoảng trả nợ, gây lạm phát vì chi tiêu bừa bãi, từ đó đẩy lãi suất cao làm đình đốn kinh tế. Do đó, cần hiểu rõ nguồn thu, tình hình chi tiêu và nợ nần của Nhà nước. Điều này đòi hỏi minh bạch chi tiết và yêu cầu theo đúng chuẩn mực kế toán tài chính đã được các cơ quan quốc tế ban hành.

Quy định phải gắn với trách nhiệm và chế tài

Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy nếu không gắn được trách nhiệm cụ thể của cá nhân, tổ chức phải thực thi các quyết định dạng này thì chúng rất khó phát huy hiệu quả ngay cả ở cấp chính quyền trung ương chứ chưa nói gì đến cấp chính quyền địa phương. Các thông tin nếu có được cung cấp thì cũng thường là chậm trễ, kém chính xác, không đầy đủ hoặc không đúng yêu cầu.

Do vậy, để các quy định này được thực thi nghiêm túc trước tiên cần có sự tập trung và thu gọn đầu mối quản lý mọi khoản thu chi của Chính phủ về Bộ Tài chính ở cấp trung ương và các sở tài chính ở cấp địa phương. Điều này một mặt đảm bảo các thông tin liên quan thu chi của Chính phủ được cung cấp đầy đủ, mặt khác nhằm tránh các bộ, ngành hay sở đổ lỗi cho nhau trong việc cung cấp thông tin.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính nhất quán và dễ hiểu thì các mẫu, bảng biểu hạch toán cần được thiết kế thống nhất theo chuẩn mực quốc tế với yêu cầu thời điểm báo cáo nghiêm ngặt.

Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là phải gắn được trách nhiệm và chế tài xử phạt đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể khi quy định này không được tuân thủ một cách nghiêm túc. Bộ Tài chính phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội; các sở tài chính phải chịu trách nhiệm trước Bộ Tài chính; các bộ, sở, ngành, tổ chức không cung cấp thông tin theo quy định cần phải bị xử phạt, ví dụ như Bộ Tài chính hay sở tài chính có thể tạm trì hoãn giải ngân các khoản chi tiêu tiếp theo đối với các đơn vị vi phạm cho đến khi họ cung cấp đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.

TS. Phạm Thế Anh

Dự thảo Nghị định về báo cáo tài chính Nhà nước quy định gì?

Dự thảo này quy định về nội dung báo cáo tài chính nhà nước; việc tổ chức thực hiện lập, công khai báo cáo tài chính nhà nước; trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc cung cấp thông tin phục vụ việc lập báo cáo tài chính nhà nước.

Danh mục báo cáo tài chính nhà nước gồm báo cáo tài chính nhà nước toàn quốc phản ánh toàn bộ thông tin tài chính nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc do Nhà nước quản lý trên phạm vi toàn quốc và báo cáo tài chính nhà nước tỉnh phản ánh toàn bộ thông tin tài chính nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc do Nhà nước quản lý trên phạm vi địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ( mỗi báo cáo gồm báo cáo tình hình tài chính nhà nước; báo cáo kết quả hoạt động tài chính nhà nước; báo cáo lưu chuyển tiền tệ; thuyết minh báo cáo tài chính nhà nước).

Điều 15 dự thảo quy định về việc công khai báo cáo tài chính nhà nước như sau:

1. Nội dung công khai:

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc giang a) Ủy ban nhân dân tỉnh công khai các thông tin chủ yếu trong báo cáo tài chính nhà nước tỉnh, bao gồm: tình hình tài sản nhà nước; nợ chính quyền địa phương, các khoản phải trả khác của Nhà nước; nguồn vốn của Nhà nước; tình hình thu nhập, chi phí và kết quả hoạt động tài chính nhà nước; tình hình lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính nhà nước.

b) Bộ Tài chính công khai các thông tin chủ yếu trong báo cáo tài chính nhà nước toàn quốc, bao gồm: tình hình tài sản nhà nước; nợ công và các khoản phải trả khác của Nhà nước; nguồn vốn của Nhà nước; tình hình thu nhập, chi phí và kết quả hoạt động tài chính nhà nước; tình hình lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính nhà nước.

2. Hình thức công khai:

a) Ủy ban nhân dân tỉnh đăng tải các thông tin chủ yếu trong báo cáo tài chính nhà nước tỉnh và thuyết minh cụ thể một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng trên cổng thông tin điện tử của tỉnh;

b) Bộ Tài chính phát hành ấn phẩm các thông tin chủ yếu trong báo cáo tài chính nhà nước và thuyết minh cụ thể một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng trên phạm vi toàn quốc, đăng tải các thông tin chủ yếu trong báo cáo tài chính nhà nước và thuyết minh cụ thể một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính;

c) Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

3. Thời hạn công khai:

a) Ủy ban nhân dân tỉnh công khai báo cáo tài chính nhà nước tỉnh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày báo cáo tài chính nhà nước tỉnh được báo cáo trước Hội đồng nhân dân tỉnh;

b) Bộ Tài chính công khai báo cáo tài chính nhà nước toàn quốc trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày báo cáo tài chính nhà nước toàn quốc được báo cáo trước Quốc hội.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hà đông Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn online
[Read More...]


Dịch vụ kế toán - kiểm toán Việt Nam từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế




Không phải bây giờ chúng ta mới hội nhập dịch vụ kế toán kiểm toán (KT-KT). Nhân lực về KT-KT cũng rất mạnh. Họ vừa có chứng chỉ hành nghề quốc tế vừa có chứng chỉ hành nghề của Việt Nam.

Nhân lực đội ngũ kế toán kiểm toán Việt Nam đã từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế hội nhập.

Hơn nữa, có khá nhiều doanh nghiệp (DN) dịch vụ kiểm toán trong nước có thực lực mạnh và có kinh nghiệm. PGS.TS Đặng Thái Hùng - Vụ trưởng Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán Bộ Tài chính đã cho biết như vậy trong cuộc trao đổi với phóng viên TBTCVN, bên lề Hội nghị sơ kết 6 tháng của Vụ Chế độ Kế toán và kiểm toán vừa diễn ra.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng * PV: Năm 2016, là năm bước vào giai đoạn 2 của lộ trình thực hiện Chiến lược Phát triển KT - KT đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Xin ông cho biết một số kết quả Bộ Tài chính thực hiện trong 6 tháng đầu năm 2016, nhằm thực hiện những mục tiêu lớn, đáp ứng yêu cầu hội nhập?

- PGS.TS Đặng Thái Hùng: Trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập sâu rộng hơn bằng các hiệp định, trong đó có thỏa thuận ASEAN về các lĩnh vực dịch vụ, trong đó có KT - KT…

Do đó, Bộ Tài chính tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện nghị định hướng dẫn Luật Kế toán 2015, có hiệu lực từ 1/1/2017; chuẩn bị các điều kiện cho việc đưa các chuẩn mực quốc tế về báo cáo tài chính kế toán cho khu vực công áp dụng vào Việt Nam.

Bước chuẩn bị cho hội nhập, Bộ Tài chính đã thành lập Ủy ban Giám sát KT - KT để phối hợp với Ủy ban ASEAN trong việc triển khai thỏa thuận hợp tác và cung cấp dịch vụ lẫn nhau trong ASEAN. Thông qua đó để các quốc gia ASEAN thống nhất cách thức hoạt động, tiêu chuẩn điều kiện kiểm toán viên, kế toán viên hành nghề…


PGS.TS Đặng Thái Hùng

Chỉ trong 6 tháng đầu năm, Bộ Tài chính đã chủ động phối hợp với các tổ chức quốc tế, tổ chức nghề nghiệp quốc tế triển khai hàng hoạt các hội thảo bàn về xu hướng và chiến lược phát triển KT - KT của Việt Nam, chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế áp dụng tại Việt Nam; Tổng kết 25 năm hoạt động kiểm toán độc lập.

Thông qua các hoạt động này, Bộ Tài chính xác định các nguyên nhân, sự cần thiết và phương thức triển khai áp dụng thông lệ quốc tế KT- KT vào Việt Nam; xác định yếu tố thuận lợi, khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển KT-KT đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

* PV: Việc hội nhập KT - KT của Việt Nam với cộng đồng ASEAN và quốc tế đặt ra những thách thức gì, thưa ông?

- PGS.TS Đặng Thái Hùng: Thách thức lớn nhất chúng tôi quan tâm là đẩy nhanh tiến độ hội nhập KT - KT của Việt Nam, đặc biệt là triển khai áp dụng các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế và chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam.

Đây là vấn đề khó để đẩy nhanh, bởi trình độ phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam cũng đang trong bước chuyển đổi, nên chưa đầy đủ các yếu tố, điều kiện để áp dụng một cách toàn diện các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế.

dịch vụ làm báo cáo tài chính tại Quận Phú Nhuận Đồng thời, do đặc thù của Việt Nam trong quản lý tài chính ngân sách cũng cần có thời gian để triển khai áp dụng các chuẩn mực kế toán công quốc tế.

Việc chậm thực hiện triển khai áp dụng các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế và chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc hoạt động KT - KT Việt Nam có độ chênh với thông lệ quốc tế, liên quan đến hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài…

* PV: Kể từ năm 2017, theo thỏa thuận công nhận lẫn nhau thì KT - KT là 1 trong 8 lĩnh vực, ngành nghề được di chuyển hoạt động tự do trong cộng đồng ASEAN. Ông đánh giá thế nào về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dịch vụ KT - KT cũng như đội ngũ KT - KT viên Việt Nam hiện nay?

- PGS.TS Đặng Thái Hùng: Điều này chúng ta cũng không phải lo ngại lắm. Trên thực tế từ năm 1994 đến nay, các hãng kiểm toán lớn của thế giới (Big Four) đã tham gia vào thị trường Việt Nam. Ban đầu hệ thống quản lý và điều hành của Big Four là người nước ngoài nhưng đến nay thì chuyển giao hoàn toàn cho  người Việt Nam.

Vì vậy, không phải bây giờ chúng ta mới hội nhập dịch vụ này. Lực lượng đội ngũ nhân lực ở đây cũng rất mạnh. Họ vừa có chứng chỉ hành nghề quốc tế vừa có chứng chỉ hành nghề của Việt Nam.

Hơn nữa, có khá nhiều DN dịch vụ kiểm toán trong nước có thực lực mạnh và có kinh nghiệm. Đặc biệt trong số các kiểm toán viên, kế toán viên Việt Nam, rất nhiều người đã có chứng chỉ hành nghề quốc tế.

Việc xác định tiêu chuẩn ASEAN thế nào, có phù hợp với từng nước hay không đang trong quá trình Ủy ban ASEAN đang họp bàn. Hội nhập ASEAN sẽ được tiến hành từng bước theo hình thức song phương nhiều hơn. Giữa các nước có điều kiện tương đồng sẽ có sự hợp tác, thừa nhận lẫn nhau nhiều hơn…

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại quảng ninh * PV: Xin cảm ơn ông!
Theo Thoibaotaichinhvietnam
[Read More...]


Thách thức mới đối với các doanh nghiệp kế toán thời bùng nổ công nghệ số?



Kế toán viên phải đáp lại các áp lực về công nghệ và mô hình hoạt động mới đến từ phía khách hàng. Do vậy, hơn bao giờ hết, cần phát huy khả năng của họ trên vai trò là những chuyên gia cố vấn về tài chính đáng tin cậy.

Sự thành công trong kinh doanh dựa trên sự kết hợp của con người, quy trình và công nghệ.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều kế toán viên lo ngại rằng vai trò của họ sẽ bị ảnh hưởng trong thời đại kỹ thuật số, tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều vấn đề khiến họ mất ngủ.

Sự can thiệp của kỹ thuật số đối với doanh nghiệp - bạn hay thù?

Từ các công ty hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, dịch vụ pháp luật đến các tổ chức giáo dục hay tập đoàn bán lẻ, sự xuất hiện của công nghệ số khiến các doanh nghiệp này buộc phải tìm cách phát triển hoặc sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Nghề kế toán cũng không phải là một ngoại lệ.

Andrew Dickeson FCPA, Giám đốc dịch vụ thuế tại Công ty Staples Rodway (Thành phố Auckland, New Zealand) cho biết tác động của công nghệ số thể hiện rõ nhất tại các công ty kế toán nhỏ, nơi mà những công việc kế toán truyền thống giờ có thể được thực hiện bởi các sản phẩm phần mềm trực tuyến như MYOB và Xero.

Tuy nhiên, chìa khóa cho các công ty là họ cần phải thay đổi tư duy về việc chuyển đổi từ những người giữ gìn sổ sách thành “các cố vấn kinh doanh” có khả năng tạo giá trị gia tăng cho khách hàng.

Để đáp lại xu thế phát triển của kỹ thuật số, Công ty Staples Rodway đang phát triển đội ngũ công nghệ thông tin nội bộ của Công ty và triển khai các dịch vụ có liên quan đến công nghệ đám mây cho khách hàng, cho phép họ phân tích kết quả tài chính trong thời gian thực trong khi cũng sử dụng phân tích dự báo để thúc đẩy các cơ hội tăng trưởng.

"Bất kể sự can thiệp nào của công nghệ cũng có thể được xem như mối đe doạ, nhưng ngược lại, bạn cũng có thể biến đó thành cơ hội”, Dickeson chia sẻ.

Chiến lược gia về kinh doanh Devini Goonetilleke FCPA cũng khẳng định rằng mối đe dọa thực sự đối với doanh nghiệp và khách hàng của cô là việc phớt lờ rủi ro từ việc không sử dụng các dữ liệu và công cụ kỹ thuật số.

Là người am hiểu về công nghệ, Devini cho biết sự thành công trong kinh doanh dựa trên sự kết hợp của con người, quy trình và công nghệ. “Tôi không thấy kỹ thuật số là một yếu tố gây cản trở, trên thực tế, tôi đang làm việc với khách hàng để kỹ thuật số có thể giúp họ phát triển hơn”, chiến lược gia này chia sẻ.

Làm thế nào để cân bằng giữa các mối quan hệ cá nhân và công việc?

Cuộc khủng hoảng mà người nông dân nuôi bò sữa tại Australia đang gặp phải, kéo theo việc giá sữa giảm mạnh đang có tác động nhất định đến Justin Gordon CPA và các đối tác tại Công ty dịch vụ Thuế và Kế toán Strategem.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh Để giúp các công ty sữa đối mặt với tình hình này, Công ty Strategem của Justin đang cung cấp các công cụ phân tích tài chính cho phép người nông dân giám sát các xu hướng kinh doanh trong vòng 5 năm, trong đó có xét đến các yếu tố cổ phiếu, giá sữa và các vấn đề về vụ mùa nhằm cung cấp cho họ một lợi thế cạnh tranh chiến lược.

Động thái này cũng có tác dụng đem lại nhiều cơ hội kinh doanh hơn cho Strategem và chứng minh rằng trong nghịch cảnh có thể đem alại cơ hội. “Chúng tôi thấy rằng việc này đem lại nhiều cơ hội phát triển cho chúng tôi hơn là chờ đợi vào những công việc truyền thống như làm các giấy tờ hoàn thuế”, Gordon cho biết

Làm thế nào để đối mặt với các vấn đề về việc tuân thủ?

Việc toàn cầu hóa của các chuẩn mực kế toán thông qua IFRS đã tạo thêm áp lực cho các kiểm toán viên như Vickie Fan, FCPA – Giám đốc điều hành của công ty Fan, Chan & Co tại Hồng Kông.

Fan yêu công việc của mình nhưng cô thừa nhận rằng những thay đổi về quy định pháp luật, những trách nhiệm pháp lý và việc cạnh tranh với Big Four đã làm cho việc tuyển dụng các kiểm toán viên hoặc kế toán viên có kinh nghiệm trở nên không hề dễ dàng. Nói cách khác, công việc kiểm toán không hề hấp dẫn.

“Nghề kiểm toán có con đường sự nghiệp không hề dễ dàng và gần như chúng tôi khó có thể tuyển những người có kinh nghiệm trong một sớm một chiều”, Fan cho biết.

Bù lại, công ty của Fan đã xây dựng được đội ngũ kiểm toán viên có chất lượng, có khả năng làm việc nhóm tốt và mang lại hiệu quả công việc cao. "Đôi khi tôi thích các vấn đề khó khăn bởi vì tôi có thể học cách giải quyết chúng và cũng có thể chuyển đổi một số thách thức thành cơ hội", Fan nói.

Các công ty khác cũng phải đối mặt với các vấn đề tương tự, chủ yếu là điều kiện làm việc linh hoạt và cơ hội đào tạo hấp dẫn để thu hút các kiểm toán viên.

Justin Gordon đồng ý rằng nghề kiểm toán không phải là một nghề hấp dẫn. Công ty của ông đối mặt với vấn đề này bằng cách phổ biến và chia sẻ các công việc kiểm toán cho toàn bộ đội ngũ nhân viên kế toán, tạo cơ hội cho họ tiếp xúc với công việc kiểm toán và giúp hình thành một đội ngũ đa kỹ năng.

Vì nhân viên công ty ông có thể chỉ làm các công việc kiểm toán vài tuần trong một năm nên bây giờ họ trông chờ cơ hội này để xây dựng thêm kỹ năng, đồng thời có cơ hội làm việc ngoài văn phòng.

Có cần phải giảm phí không?

Song song với những thách thức về việc tuân thủ, áp lực phải giảm phí cũng là một vấn đề lớn cho các doanh nghiệp địa phương như Strategem.

dịch vụ làm báo cáo tài chính cuối năm tại Bắc Ninh Việc cắt giảm tài trợ của các tổ chức phi lợi nhuận đã khiến khách hàng của các công ty cung cấp dịch vụ kế toán yêu cầu giảm chi phí kiểm toán, trong khi cạnh tranh từ những công ty lớn tại Melbourne đang lan rộng đến những thành phố nhỏ càng làm gia tăng sức ép cho các công ty quy mô nhỏ tại địa phương.

“Điều này vô cùng khó khăn. Rất nhiều khách hàng của chúng tôi không hiểu được việc tuân thủ các quy định là vô cùng cần thiết để chúng tôi đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn chuyên nghiệp của nghề nghiệp", Gordon nói.

Cách tốt nhất để phát triển là gì?

Với sự cạnh tranh ngày càng tăng, rất nhiều công ty đang xem xét các lựa chọn để có được cơ hội kinh doanh mới. Ví dụ như Fan, Chan & Co được mở rộng vào các thành phố của Trung Quốc đại lục như Thượng Hải.

Trong khi đó, Strategem lại đang triển khai phương thức khuyến mãi cho khách hàng và chương trình khuyến khích dành cho nhân viên với mức thưởng trị giá 30% phí năm đầu tiên của mỗi hợp đồng hoặc công việc mà họ mang lại cho công ty này.

Staples Rodway cũng đã có sáng kiến cung cấp dịch vụ hành chính, nhân sự và trả lương cho những công ty có quy mô nhỏ hơn khi họ không có đủ ngân sách để tuyển các chuyên gia nội bộ. “Việc này giúp chúng tôi bù đắp nhu cầu đang giảm sút về công việc duy trì sổ sách truyền thống”, Andrew Dickeson cho biết.

Chuyên gia này cũng hy vọng rằng các công ty kế toán có thể tiến tới việc cung cấp các dịch vụ mới sáng tạo hơn và trở thành một điểm đến duy nhất cho các khách hàng cần những dịch vụ chuyên nghiệp, có thể mang lại nhều giá trị gia tăng hơn cho khách hàng.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại long biên Theo tạp chí INTHEBLACK của CPA Australia
[Read More...]


Yếu tố tác động đến kế toán doanh thu, chi phí dịch vụ trong doanh nghiệp tư vấn xây dựng



Hoạt động tư vấn đầu tư xây dựng công trình là hoạt động trí tuệ của những người có kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm để cung cấp cho khách hàng các lời khuyên, những đề xuất, kiến nghị và biện pháp thực hiện trong quá trình đầu tư xây dựng công trình. Người thực hiện công việc tư vấn có trình độ, năng lực càng cao, kinh nghiệm càng nhiều tạo ra những sản phẩm tư vấn có chất lượng tốt. Trong bài viết này tác giả chỉ đề cập đến đặc thù của dịch vụ tư vấn xây dựng ảnh hưởng đến kế toán doanh thu, chi phí dịch vụ trong các doanh nghiệp tư vấn xây dựng.


Khái quát về dịch vụ tư vấn xây dựng

Theo Luật Xây dựng, hoạt động tư vấn đầu tư xây dựng gồm: Lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát, thiết kế xây dựng, thẩm tra, kiểm định, thí nghiệm, quản lý dự án, giám sát thi công và công việc tư vấn khác có liên quan đến hoạt động đầu tư xây dựng.

Dịch vụ tư vấn xây dựng bao gồm:

- Tư vấn đầu tư: Lập dự án đầu tư và lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật.

- Tư vấn đấu thầu: Dịch vụ tư vấn đấu thầu hiện nay bao gồm: Tư vấn lập kế hoạch đấu thầu, lập hồ sơ mời thầu/hồ sơ yêu cầu, đánh giá hồ sơ dự thầu/hồ sơ đề xuất, thẩm định đấu thầu, giải quyết tình huống trong đấu thầu.

- Tư vấn thẩm tra: Thẩm tra dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, giao thông… là quá trình kiểm tra, xem xét các nội dụng, yêu cầu kỹ thuật, tính pháp lý của dự án đầu tư. Lập báo cáo kết quả thẩm tra làm cơ sở cho việc thẩm định phê duyệt.

- Tư vấn khảo sát: Khảo sát địa hình, khảo sát địa chất công trình để đề xuất giải pháp kỹ thuật phục vụ cho việc thiết kế, thi công xây dựng công trình.

- Tư vấn thiết kế: Thực hiện toàn bộ công việc tý vấn thiết kế bản vẽ thi công và lập dự toán xây dựng hạng mục công trình.

- Tư vấn giám sát: Đảm bảo việc thi công xây lắp được thực hiện đúng hồ sơ thiết kế; Phát hiện, xử lý các chi tiết công trình mà nhà thầu và chủ đầu tư không rõ; Hỗ trợ chủ đầu tư, nhà thầu thiết kế xử lý các sai sót tại hiện trường; Giám sát chất lượng thi công công trình.

Quy trình thực hiện dịch vụ tư vấn xây dựng:

Mỗi dịch vụ tư vấn xây dựng tuy có đặc điểm riêng nhưng tựu chung đều có quy trình thực hiện như sau:

- Bước 1: Ký hợp đồng với khách hàng.

- Bước 2: Thu thập số liệu đầu vào phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ.

- Bước 3: Lập kế hoạch thực hiện.

- Bước 4: Phân công nhiệm vụ thực hiện cho từng bộ môn/xí nghiệp thiết kế (bộ môn kiến trúc, kết cấu, dự toán...).

- Bước 5: Các bộ môn/xí nghiệp thiết kế triển khai thực hiện theo kế hoạch đã được duyệt.

- Bước 6: Tổng hợp hồ sơ dự án.

- Bước 7: Kiểm tra hồ sơ dự án.

Nếu hồ sơ đạt chuyển sang bước 8.

Nếu hồ sơ không đạt  quay trở lại bước 5 để hoàn thiện hồ sơ.

- Bước 8: Bàn giao hồ sơ cho khách hàng

- Bước 9: Nghiệm thu - thanh lý hợp đồng

Xác định giá thành dự toán hợp đồng tư vấn xây dựng:

Giá thành dự toán là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng công việc của dự án. Giá thành dự toán được xác định theo định mức và khung giá quy định áp dụng cho từng vùng lãnh thổ. Giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán dự án ở phần thu nhập chịu thuế tính trước. Việc lập dự toán các công trình, hạng mục công trình có thể được khái quát qua các bước sau:

- Xác định kế hoạch khối lượng công việc thực hiện của công trình, hạng mục công trình.

- Xác định định mức chi phí của từng loại hình dịch vụ tư vấn xây dựng theo Quyết định 957/QĐ-BXD ngày 29/9/2009 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Đối với những công việc chưa có định mức trong Quyết định 957/QĐ-BXD thì các công ty tư vấn dựa vào những công việc có nội dung giống như những công việc đã có định mức; hoặc dựa vào công việc đã thực hiện để xác định định mức chi phí.

- Căn cứ vào dự toán đã xây dựng cho từng công trình, hạng mục công trình tiến hành lập bảng tổng dự toán chi phí dự án (dự toán hợp đồng tư vấn xây dựng).

Tác động của dịch vụ tư vấn xây dựng đến kế toán doanh thu, chi phí dịch vụ

Thứ nhất, dịch vụ tư vấn xây dựng có đặc điểm không đồng nhất, mỗi hợp đồng tư vấn xây dựng là duy nhất, không lặp lại về chất lượng và quy mô. Mỗi hợp đồng tư vấn xây dựng được thực hiện với nhiều yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau. Với đặc trưng này, kế toán doanh thu, chi phí dịch vụ được thực hiện như sau:

- Đối với kế toán quản trị: Xác định đối tượng tính giá thành dịch vụ theo từng hợp đồng tư vấn xây dựng; Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng; đối tượng tập hợp chi phí theo từng xí nghiệp/bộ môn thiết kế;  Xây dựng dự toán doanh thu, chi phí dịch vụ tư vấn xây dựng theo từng hợp đồng tư vấn xây dựng; Lập báo cáo kế toán theo từng hợp đồng tư vấn xây dựng phục vụ cho yêu cầu quản lý của nhà quản trị

- Đối với kế toán tài chính: Kế toán nhận diện, đo lường, ghi nhận doanh thu, chi phí theo từng hợp đồng tư vấn xây dựng.

Thứ hai, quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ đôi khi diễn ra cùng lúc nên sản phẩm dịch vụ tư vấn xây dựng về cơ bản là không thể lưu kho được, điều này hầu như không phát sinh chi phí tồn kho thành phẩm. Sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành mà chưa tiêu thụ, chưa xác định doanh thu thì toàn bộ chi phí bỏ ra vẫn được coi là sản phẩm dở dang.

Thứ ba, sự đa dạng về các loại hình dịch vụ tư vấn xây dựng, dẫn đến sự đa dạng về hợp đồng tư vấn xây dựng gây khó khăn trong việc tập hợp chi phí và ghi nhận doanh thu dịch vụ. Đặc biệt, trong một hợp đồng dịch vụ tư vấn xây dựng có thể bao gồm nhiều dịch vụ kết hợp như: dịch vụ khảo sát; dịch vụ thiết kế; dịch vụ giám sát.

Do vậy, nội dung của các khoản chi phí phát sinh trong cùng một hợp đồng tư vấn xây dựng được phát sinh ở những không gian và địa điểm khác nhau. Kế toán phải tập hợp chi phí chi tiết cho từng loại dịch vụ, sau đó tổng hợp các chi phí dịch vụ đã hoàn thành cho từng hợp đồng tư vấn xây dựng. Việc xác định doanh thu, chi phí dịch vụ hoàn thành theo từng giai đoạn/từng gói dịch vụ trong hợp đồng tư vấn xây dựng.

Thứ tư, thời gian để thực hiện một hợp đồng tư vấn xây dựng có thể một vài tháng hoặc hàng năm, có thể cùng kỳ hay khác kỳ kế toán. Do vậy, việc đo lường, ghi nhận doanh thu, chi phí dịch vụ tư vấn xây dựng như sau:

Nếu dịch vụ tư vấn xây dựng phát sinh trong thời gian ngắn cùng kỳ kế toán:

- Doanh thu dịch vụ tư vấn xây dựng được xác định và ghi nhận trong kỳ là toàn bộ doanh thu thu được sau khi hoàn thành bàn giao sản phẩm. Doanh thu này có thể là doanh thu ban đầu được ký kết hoặc doanh thu có điều chỉnh do thay đổi yêu cầu của công việc được cả hai bên đồng ý.

- Chi phí dịch vụ tư vấn xây dựng được xác định và ghi nhận trong kỳ là toàn bộ chi phí thực tế phát sinh để hoàn thành sản phẩm dịch vụ trong kỳ.

Nếu dịch vụ tư vấn xây dựng phát sinh trong thời gian dài liên quan đến nhiều kỳ kế toán:

- Việc xác định doanh thu, chi phí dịch vụ hoàn thành từng phần/theo giai đoạn được thực hiện theo phương pháp tỷ lệ hoàn thành. Phần công việc đã hoàn thành được xác định theo một trong ba phương pháp, tuỳ thuộc vào bản chất của dịch vụ: Đánh giá phần công việc đã hoàn thành; So sánh tỷ lệ giữa khối lượng công việc đã hoàn thành với tổng khối lượng công việc phải hoàn thành; Tỷ lệ chi phí đã phát sinh so với tổng chi phí ước tính để hoàn thành toàn bộ giao dịch cung cấp dịch vụ.

- Phần công việc đã hoàn thành không phụ thuộc vào các khoản thanh toán định kỳ hay các khoản ứng trước của khách hàng.

Thứ năm, hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn xây dựng vừa mang tính sản xuất vừa mang đặc điểm kinh doanh dịch vụ và mang tính chất văn hóa xã hội. Trong đó, mặt sản xuất kinh doanh dịch vụ là cơ bản và là một ngành đặc biệt mang tính chất pha trộn đặc điểm nhiều ngành. Các hoạt động khác nhau đòi hỏi sự phối hợp triển khai công việc giữa các bộ môn thiết kế kiến trúc, kết cấu, cấp điện, cấp thoát nước, dự toán... phải nhanh chóng, thuận lợi và có hiệu quả. Do vậy, phải lập các báo kế toán bộ phận để xác định được trách nhiệm và đánh giá hiệu quả của từng bộ phận/xí nghiệp thiết kế.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại biên hòa đồng nai Từ những đặc điểm điểm trên thì phương pháp kế toán doanh thu, chi phí dịch vụ tư vấn xây dựng như sau:

 Một là, trường hợp nếu khách hàng ứng trước tiền khi ký kết hợp đồng (thường từ 10- 30% giá trị hợp đồng): Nếu khách hàng ứng trước tiền mà chưa có khối lượng sản phẩm dịch vụ bàn giao, thì doanh nghiệp theo dõi vào bên có tài khoản phải thu của khách hàng và sẽ được kết chuyển dần sang tài khoản doanh thu dịch vụ, khi có khối lượng hoàn thành bàn giao. Tại thời điểm này không ghi nhận tăng doanh thu và chi phí dịch vụ

Hai là, tập hợp chi phí dịch vụ phát sinh trong kỳ: Chi phí dịch vụ tư vấn bao gồm, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng hợp đồng tư vấn xây dựng.

- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm: Chi phí giấy vẽ A0, A1, A3, A4, mực, chi phí phô tô tài liệu.

- Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm: Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương trả cho các chuyên gia tư vấn trong đơn vị hoặc thuê ngoài. Chuyên gia tư vấn bao gồm: Chi phí chủ nhiệm dự án; chủ trì dự án; chi phí giám sát tác giả; các kỹ sư, kiến trúc sư trong công ty hoặc thuê ngoài.

- Chi phí sản xuất chung bao gồm: Tất cả các chi phí sản xuất cần thiết khác phát sinh trong phạm vi các bộ môn. Chi phí sản xuất chung bao gồm: Chi phí công cụ dụng cụ; chi phí khấu hao tài sản cố định; chi phí tiền lương; chi phí dịch vụ mua ngoài; chi phí khác bằng tiền.

Căn cứ vào chứng từ kế toán phát sinh, kế toán xử lý và hạch toán vào bên Nợ tài khoản “chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”, tài khoản “chi phí nhân công trực tiếp”, tài khoản “chi phí sản xuất chung”. Đồng thời, mở sổ kế toán chi tiết từng hợp đồng tư vấn xây dựng để theo dõi.

Cuối kỳ, sau khi tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung theo từng đối tượng, kế toán tiến hành kết chuyển hoặc phân bổ các loại chi phí này, để tập hợp toàn bộ chi phí sản xuất cho từng đối tượng chịu chi phí trên tài khoản “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”; hoặc tài khoản “Giá thành sản xuất”, phục vụ cho việc tính giá thành dịch vụ đã thực hiện trong kỳ.

Ba là, khi sản phẩm dịch vụ hoàn thành bàn giao cho khách hàng: Căn cứ vào chứng từ kế toán liên quan đến doanh thu chi phí dịch vụ thực sự phát sinh và hoàn thành: Hóa đơn giá trị gia tăng; biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành/biên bản bàn giao sản phẩm hoàn thành/biên bản xác nhận sản phẩm hoàn thành; Các chứng từ khác có liên quan kê toán ghi nhận doanh thu và chi phí dịch vụ trong kỳ.

- Trường hợp 1: Nếu dịch vụ diễn ra trong một thời gian ngắn, trong một kỳ kế toán thì kế toán căn cứ vào thời điểm hoàn thành bàn giao sản phẩm dịch vụ cho khách hàng kế toán ghi nhận tăng doanh thu. Đồng thời, kế toán ghi nhận tăng chi phí giá vốn hàng bán và giảm khối lượng sàn phẩm dịch vụ hoàn thành.

- Trường hợp 2: Nếu dịch vụ diễn ra trong thời gian dài, liên quan đến nhiều kỳ kế toán thì kế toán căn cứ vào khối lượng sản phẩm hoàn thành từng đợt để ghi nhận tăng doanh thu. Đồng thời, kế toán ghi nhận tăng chi phí giá vốn hàng bán và giảm khối lượng sàn phẩm dịch vụ hoàn thành theo từng phần từng giai đoạn hoàn thành.

Bốn là các khoản giảm trừ doanh thu (nếu có): Trường hợp trong kỳ phát sinh các khoản giảm trừ doanh thu như chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại kế toán căn cứ vào hóa đơn giá trị gia tăng và các chứng từ có liên quan để ghi vào bên Nợ tài khoản giảm trừ doanh thu. Cuối kỳ, kết chuyển các khoản giảm trừ doanh thu sang bên Nợ tài khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ để xác định doanh thu thuần.

Năm là các khoản chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh: Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm: Chi phí bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; chi phí lương và các khoản trích theo lương của bộ máy quản lý doanh nghiệp; chi phí nhiên liệu dùng trong hành chính quản trị; chi phí công cụ dụng cụ; chi phí khấu hao tài sản cố định; chi phí dịch vụ điện nước, điện thoại, internet... dùng chung toàn doanh nghiệp; các khoản thuế, phí lệ phí; chi phí bảo hiểm tư vấn; các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi; các khoản chi phí khác bằng tiền. Các khoản chi phí này được hạch toán vào chi phí quản lý doanh nghiệp.
dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty tại hải phòng
Căn cứ vào các chứng từ kế toán liên quan đến chi  phí quản lý doanh nghiệp kế toán ghi nhận vào bên Nợ tài khoản chi phí quản lý doanh nghiệp. Đồng thời, kế toán chi tiết chi phí quản lý doanh nghiệp theo yếu tố. Cuối kỳ kế toán kết chuyển chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp sang tài khoản “Xác định kết quả kinh doanh”.

Như vậy, dịch vụ là ngành kinh tế có nhiều đặc điểm riêng, khác biệt với các ngành sản xuất vật chất khác. Đặc thù của ngành này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến công tác kế toán nói chung và kế toán doanh thu, chi phí dịch vụ nói riêng. Do đó, nghiên cứu đặc điểm dịch vụ tư vấn xây dựng chi phối đến kế toán doanh thu, chi phí dịch vụ là vô cùng quan trọng.   

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội, Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/6/2014;

2.  Bộ Xây dựng, Quyết định 957– QĐ/BXD ngày 29/9/2009 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng;

3.  Bộ Tài chính, (2007), Thông tư 200/2014/TT –BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp;

4. Bộ Tài chính, Thông tư 161/2007/TT –BTC ban hành ngày 31/12/2007, hướng dẫn thực hiện 16 chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001, Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002 và Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại quảng ninh Theo Tạp chí Tài chính kỳ I, số tháng 8/2016
[Read More...]


Kế toán là gì? Ngành kế toán học những gì?



Kế toán là gì? Ngành kế toán học những gì?  là những thắc mắc được đông đảo các bạn thí sinh quan tâm khi tìm hiểu về ngành Kế toán. Giải đáp được những câu hỏi trên, bạn sẽ mạnh dạn chọn cho mình một tương lai nghề nghiệp gắn với sự thông minh và khéo léo. Bên cạnh đó, bạn sẽ tháo gỡ được nút thắt trong suy nghĩ cũng như định hướng tốt hơn để gắn bó lâu dài với ngành nghề ổn định này.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại quảng ninh
Ngành Kế toán là gì? Học những gì? là câu hỏi chung của nhiều em học sinh quan tâm đến ngành học gắn với nghề nghiệp ổn định này

Bài viết sau đây sẽ lần lượt giúp bạn có thêm nhiều thông tin bổ ích về ngày học mà bạn đang muốn theo đuổi.

Kế toán là gì?

Muốn học ngành Kế toán, trước tiên bạn phải hiểu rõ Kế toán là gì? Kế toán là công việc ghi chép, thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động tài chính của một tổ chức, một doanh nghiệp, một cơ quan nhà nước, một cơ sở kinh doanh tư nhân...Đây là một bộ phận đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Từ quản lý ở phạm vi từng đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp cho đến quản lý ở phạm vi toàn bộ nền kinh tế.

Từ khái niệm Kế toán là gì, chúng ta có thể xác định được đối tượng của Kế toán chính là sự hình thành, biến động của tài sản mà kế toán cần phản ánh, được thể hiện ở hai mặt là tài sản và nguồn vốn trong quá trình hoạt động của đơn vị
.
Kế toán được chia thành hai loại:

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh - Kế toán công: là kế toán tại những đơn vị hoạt động không có tính chất kinh doanh, không lấy doanh lợi làm mục đích hoạt động như các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức nhà nước...
- Kế toán doanh nghiệp:  là loại kế toán ở các doanh nghiệp, hoạt động với mục tiêu chính là kinh doanh sinh lời.

Ngành Kế toán học những gì?

Sinh viên Kế toán sẽ được cung cấp kiến thức về khung pháp lý của kế toán kiểm toán, hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế; các quy định về đạo đức nghề nghiệp của kế toán kiểm toán; kiến thức về thu thập, xử lý, kiểm tra và cung cấp thông tin về tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động kinh doanh thông qua các nghiệp vụ của kế toán: tính phí, làm dự toán, phân bổ ngân sách, quản lý doanh thu theo sát các kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.

Ngoài các kiến thức nên tảng, tổng quan sinh viên học ngành kế toán còn được trang bị kỹ năng khác như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng quản lý thời gian…

Các môn học phục vụ đắc lực cho nghề nghiệp: Nhập môn tài chính tiền tệ, Nguyên lý kế toán, Ứng dụng tin học trong kinh doanh, Phân tích báo cáo tài chính, Lập và trình bày báo cáo tài chính, Thuế, Kế toán công ty chứng khoán,…

Tại những trường đại học đào tạo ngành Kế toán uy tín, trong đó có thể kể đến Đại học Kinh tế TP.HCM, Đại học Kinh tế Tài chính TPHCM (UEF), Đại học Công nghệ TP.HCM (HUTECH),... sinh viên sẽ được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết và phát huy tối đa những tố chất mà một kế toán giỏi cần sở hữu.

Từ những thông tin vừa cung cấp, tin chắc rằng các bạn thí sinh đã tìm ra lời giải cho câu hỏi “Ngành Kế toán là gì? Học những gì?”, xác định rõ tố chất và thiên hướng nghề nghiệp là bước đà quan trọng cho lộ trình học tập và làm việc về sau. Đây cũng chính là tiền đề để các bạn định hướng chọn lựa địa chỉ đầu tư kiến thức cũng như định vị được con đường tương lai của mình.
dịch vụ làm báo cáo tài chính cuối năm tại Bắc Ninh Theo Đại học kinh tế tài chính
[Read More...]


Yêu cầu cần thiết trong quản lý hàng tồn kho



Hàng tồn kho là 1 loại tài sản ngắn hạn chiếm phần lớn trong tổng tài sản lưu động của doanh nghiệp, vì vậy quản lý hàng tồn kho có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

dịch vụ làm báo cáo tài chính cuối năm tại Bắc Ninh
Dựa theo đặc điểm của hàng tồn kho mà yêu cầu quản lý đối với từng doanh nghiệp có những điểm khác nhau. Tuy nhiên cần đảm bảo các yêu cầu cụ thể sau:

Thứ nhất, phải theo dõi hàng tồn kho ở mọi khâu như thu mua, sử dụng, bảo quản... cho đến từng người phụ trách thực hiện (thủ kho, nhân viên bán hàng, nhân viên vật tư...)

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức - Trong mua hàng: Vừa phải theo dõi thông tin thị trường, thông tin nhà cung cấp (Khả năng cung ứng, chính sách tiếp thị, tính ổn định...). vừa phải theo dõi chặt chẽ chất lượng, số lượng, quy cách, chủng loại, chi phí, tiến độ mua hàng. Đảm bảo kịp thời với kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- Trong dự trữ bảo quản: xác định chính xác mức dự trữ tồn kho đảm bảo cung ứng kịp thời cho sản xuất, tổ chức bến bãi, kho hàng đúng tiêu chuẩn bảo quản. Thông tin kịp thời định mức hàng tồn kho để có cảnh báo điều chỉnh kịp thời, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

- Trong sử dụng hàng tồn kho: tuân thủ việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm cơ sở định mức tiêu hao, dự toán chi phí, tiến độ sản xuất nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, theo dõi, nắm bắt được hình thành sản xuất sản phẩm, tiến độ thực hiện.

Thứ hai, việc quản lý hàng tồn kho phải thường xuyên đảm bảo được quan hệ đối chiếu phù hợp giữa giá trị và hiện vật, giữa các số liệu chi tiết và tổng hợp, giữa số liệu ghi sổ và số liệu thực tế tồn kho.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại đống đa Tổng hợp
[Read More...]


Cách xây dựng và phân tích chi phí định mức



Phân tích hoạt động kinh doanh phải cố gắng lượng hoá bằng cách dựa trên những dữ liệu được thu thập ( ngành thống kê) xây dựng thành các phương trình (ngành toán học kinh tế ) để kiểm chứng tính xác thực của lý thuyết và những sai biệt do các yếu tố không nhìn thấy, không thể giải thích khác (ngành kinh tế lượng) trước khi sử dụng chúng để phân tích dự báo.


Mỗi nội dung phân tích đều có ý nghĩa đối với việc hình thành chiến lược kinh doanh lâu dài, ổn định hoặc xác lập các giải pháp trước mắt của doanh nghiệp. Kết quả phân tích là cơ sở cho các quyết định quản trị trong từng giai đoạn kinh doanh, hoặc trong chiến lược dài hạn.

Để kết quả phân tích có giá trị, các nhân tố cần được cố gắng định lượng trong khả năng có thể. Chính những thông tin lượng hoá đó mới đúng nghĩa là “ hệ thống thông tin hữu ích của kế toán, cơ sở của các quyết định quản trị và chỉ có điều này mới làm cho phân tích hoạt động kinh doanh trở nên thuyết phục và sẽ là hoạt động thường xuyên được quan tâm tại doanh nghiệp.

Trong doanh nghiệp, việc xây dựng định mức chi phí và phân tích định mức chi phí vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Bài viết này xin đưa ra cách xây dựng định mức chi phí và phân tích các định mức đó.

Trước hết phải hiểu chi phí định mức là gì. Đó là chi phí dự tính để sản xuất một sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ cho khách hàng

Công dụng của chi phí định mức

Là cơ sở để doanh nghiệp lập dự toán hoạt động vì muốn lập dự toán chi phí nguyên vật liệu phải có định mức nguyên vật liệu, chi phí nhân công phải có định mức số giờ công
Giúp cho các nhà quản lý kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vì chi phí định mức là tiêu chuẩn, cơ sở để đánh giá
Góp phần thông tin kịp thời cho các nhà quản lý ra quyết định hàng ngày như định giá bán sản phẩm, chấp nhận hay từ chối một đơn đặt hàng, phân tích khả năng sinh lời
Gắn liền trách nhiệm của công nhân đối với việc sử dụng nguyên vật liệu sao cho tiết kiệm

 Nguyên tắc xây dựng định mức tiêu chuẩn:

Quá trình xây dựng định mức tiêu chuẩn là một công việc có tính nghệ thuật hơn là khoa học. Nó kết hợp giữa suy nghĩ với tài năng chuyên môn của tất cả những người có trách nhiệm với giá và chất lượng sản phẩm. Trước hết phải xem xét một các nghiêm túc toàn bộ kết quả đã đạt được. Trên cơ sở đó kết hợp với những thay đổi về điều kiện kinh tế, về đặc điểm giữa cung và cầu, về kỹ thuật để điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp

Phương pháp xác định chi phí định mức :

* Phương pháp kỹ thuật: phương pháp này đòi hỏi sự kết hợp của các chuyên gia kỹ thuật để nghiên cứu thời gian thao tác công việc nhằm mục đích xác định lượng nguyên vật liệu và lao động hao phí cần thiết để sản xuất sản phẩm trong điều kiện về công nghệ, khả năng quản lý và nguồn nhân lực hiện có tại doanh nghiệp

* Phương pháp phân tích số liệu lịch sử: Xem lại giá thành đạt được ở những kỳ trước như thế nào, tuy nhiên phải xem lại kỳ này có gì thay đổi và phải xem xét những chi phí phát sinh các kỳ trước đã phù hợp hay chưa, nếu không hợp lý, hợp lệ thì bỏ hay xây dựng lại.

* Phương pháp điều chỉnh: Điều chỉnh chi phí định mức cho phù hợp với điều kiện hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp

Xây dựng định mức cho các loại chi phí sản xuất

– Xây dựng định mức chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:

Về mặt lượng nguyên vật liệu : Lượng nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất một sản phẩm, có cho phép những hao hụt bình thường

Để sản xuất 1 sản phẩm thì định mức tiêu hao nguyên vật liệu  là:

1. Nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm
2. Hao hụt cho phép
3. Lượng vật liệu tính cho sản phẩm hỏng

Về mặt giá nguyên vật liệu : Phản ánh giá cuối cùng của một đơn vị nguyên vật liệu trực tiếp sau khi đã trừ đi mọi khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán. Định mức về giá nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm là:

–  Giá mua ( trừ đi các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán )

–  Chi phí thu mua nguyên vật liệu

Như vậy ta có:

Định mức về chi phí NVL = Định mức về lượng * định mức về giá

– Xây dựng định mức chi phí nhân công trực tiếp:

Định mức về giá một đơn vị thời gian lao động trực tiếp: bao gồm không chỉ mức lượng căn bản mà còn gồm cả các khoản phụ cấp lương, BHXH,BHYT,KPCĐ của lao động trực tiếp. Định mức giá 1 giờ công lao động trực tiếp ở một phân xưởng như sau:

– Mức lương căn bản một giờ
– BHXH,

Định mức về lượng thời gian cho phép để hoàn thành 1 đơn vị sản phẩm. Có thể được xác định bằng 2 cách:

Phương pháp kỹ thuật: chia công việc theo nhiều công đoạn rồi kết hợp với bảng thời gian tiêu chuẩn của những thao tác kỹ thuật để định thời gian chuẩn cho từng công việc
Phương pháp bấm giờ

Về lượng thời gian để sản xuất 1 sản phẩm được xác định như sau:

+ Thời gian cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm
+ Thời gian nghĩ ngơi, lau chùi máy
+ Thời gian tính cho sản phẩm hỏng

Như vậy ta có:

Định mức chi phí NCTT = Định mức lượng x Định mức giá

– Định mức chi phí sản xuất chung

*Định mức biến phí sản xuất chung

Cũng được xây dựng theo định mức giá và lượng. Định mức giá phản ánh biến phí của đơn giá chi phí sản xuất chung phân bổ. Định mức lượng, ví dụ thời gian thì phản ánh số giờ của hoạt động được chọn làm căn cứ phân bổ chi phí sản xuất chung cho 1 đơn vị sản phẩm

Ví dụ: Phần biến phí trong đơn giá sản xuất chung phân bổ là 1200 đ và căn cứ được chọn để phân bổ là số giờ lao động trực tiếp (định mức về lượng thời gian trực tiếp sản xuất 1 sản phẩm) là 3.5 giờ/sp thì định mức phần biến phí sản xuất chung của sản phẩm là:

1 200đ/ giờ x 3.5 giờ/s.p = 4 200đ/s.p

*Định mức định phí sản xuất chung

Được xây dựng tương tự như ở phần biến phí. Sở dĩ tách riêng là nhằm giúp cho quá trình phân tích chi phí sản xuất chung sau này.

Ví dụ: Phần định phí trong đơn giá sản xuất chung phân bổ là 3 200đ/giờ và căn cứ chọn phân bổ là số giờ lao động trực tiếp với 3.5 giờ/s.p, thì phần định phí sản xuất chung của 1 sản phẩm  là:

3 200đ/giờ x 3.5 giờ/s.p = 11 200 đ/s.p

Vậy, đơn giá phân bổ chi phí sản xuất chung :

1 200đ/s.p + 3 200 đ/giờ = 4 400đ

Chi phí sản xuất chung để sản xuất 1 sản phẩm  là:

4 400 đ/giờ x 3.5 giờ/s.p = 15 400 đ/s.p

Từ cách xây dựng định mức trên ta đi xây dựng phương trình hồi quy dưới dạng tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên chí phí sản xuất:

Y = ao + a1X1 + a2X2 + a3X3

Y: Chi phí sản xuất sản phẩm

X1: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

X2: Chi phí nhân công trực tiếp

X3: Chi phí sản xuất chung

Ta đi xây dựng phương trình hồi quy tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên chi phí định mức về lượng và giá của chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung như sau:

– Chi phí định mức nguyên vật liệu trực tiếp

Phương trình hồi quy chi phí định mức về lượng nguyên vật liệu:

G= ao +a1g1 + a2g2 + a3g3 +e

G là chi phí định mức về lượng nguyên vật liệu

g1 là lượng nguyên vật liệu cần cho sản xuất 1 sản phẩm

g2 là lượng nguyên vật liệu hao hụt cho phép

g3 là lượng nguyên vật liệu dùng cho sản phẩm hỏng

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức lượng nguyên vật liệu khi lượng nguyên vật liệu dùng cho sản xuất 1 sản phẩm thay đổi 1 đơn vị

a2 là  mức tác động tới định mức lượng nguyên vật liệu khi lượng nguyên vật liệu hao hụt cho phép thay đổi 1 đơn vị

a3 là  mức tác động tới định mức lượng nguyên vật liệu khi lượng nguyên vật liệu dùng cho sản phẩm hỏng thay đổi 1 đơn vị

e là sai số, thể hiện sự tác động của các yếu tố khác

dịch vụ làm báo cáo tài chính tại Bắc Ninh
Phương trình hồi quy chi phí định mức về giá nguyên vật liệu:

Z = ao +a1z1 + a2z2 +e

Z là chi phí định mức về giá nguyên vật liệu

z1 là giá mua ( sau khi trừ đi các khoản giảm trừ)

z2 là chi phí thu mua

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức giá nguyên vật liệu khi giá mua thay đổi 1 đơn vị

a2 là mức tác động tới định mức giá nguyên vật liệu khi chi phí thu mua thay đổi 1 đơn vị

e là sai số, thể hiện sự tác động của các yếu tố khác

– Chi phí định mức nhân công trực tiếp

Phương trình hồi quy chi phí định mức về lượng chi phí nhân công trực tiếp:

N= ao +a1n1 + a2n2 + a3n3 +e

G là chi phí định mức về lượng nhân công trực tiếp

g1 là lượng thời gian cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm

g2 là lượng thời gian nghĩ ngơi, lau chùi máy

g3 là lượng thời gian tính cho sản phẩm hỏng

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức lượng nhân công khi lượng thời gian cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm thay đổi 1 đơn vị

a2 là mức tác động tới định mức lượng lượng thời gian nghĩ ngơi, lau chùi máy thay đổi 1 đơn vị

a3 là mức tác động tới định mức lượng thời gian tính cho sản phẩm hỏng  thay đổi 1 đơn vị

e là sai số, thể hiện sự tác động của các yếu tố khác


Phương trình hồi quy chi phí định mức về giá nhân công trực tiếp:


M= ao +a1m1 + a2m2 + a3m3 +e

M là chi phí định mức về giá nhân công trực tiếp

g1 là giá mức lương căn bản giờ công trực tiếp

g2 là mức BHXH, BHYT, KPCĐ  tính cho 1 sản phẩm

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh g3 là phụ cấp tính cho 1 sản phẩm

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức giá nhân công khi  mức lương căn bản dùng thay đổi 1 đơn vị

a2 là  mức tác động tới định mức giá nhân công khi  mức BHXH, BHYT, KPCĐ thay đổi 1 đơn vị

a3 là  mức tác động tới định mức giá nhân công khi  mức phụ cấp thay đổi 1 đơn vị

e là sai số, thể hiện sự tác động của các yếu tố khác

– Chi phí định mức sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung được phân thành biến phí và định phí

Phương trình hồi quy định mức chi phí sản xuất chung như sau:

K = ao + a1k1 + a2k2

K là định mức chi phí sản xuất chung

k1 là biến phí sản xuất chung cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm

k2 là định phí sản xuất chung cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm

ao là số hạng cố định

a1 là mức tác động tới định mức chi phí sản xuất chung khi biến phí sản xuất chung cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm thay đổi 1 đơn vị

a2 là mức tác động tới định mức chi phí sản xuất chung khi định phí sản xuất chung cần thiết để sản xuất 1 sản phẩm thay đổi 1 đơn vị

Sau khi đã xây dựng được những phương trình toán học với mô hình hồi quy bội (hay hồi quy đa biến) ta sẽ sử dụng các kỹ thuật trong môn học kinh tế lượng để giải bài toán này. Từ đó mà việc phân tích được chính xác và chi tiết, xác định được những nhân tố trực tiếp làm ảnh hưởng đến sự biến động của chi phí, giúp nhà quản lý có nguồn thông tin chắc chắn để có giải pháp kịp thời và hiệu quả.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại đống đa Theo tapchiketoan.com.vn
[Read More...]


Doanh nghiệp TP.HCM chủ động mở rộng thị trường XNK



  Báo cáo tại kì họp thứ 14, HĐND TP.HCM khóa VIII, Giám đốc Sở Công Thương TP.HCM Lê Văn Khoa cho biết, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc có khả năng diễn biến theo chiều hướng xấu ảnh hưởng đến hoạt động XNK giữa hai nước, trong ngắn hạn sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) và hoạt động xuất, nhập nhập khẩu (XNK) của TP.HCM. Tuy nhiên trong trung và dài hạn đây cũng là cơ hội để DN thành phố tái cấu trúc lại thị trường XNK, nâng cao nội lực, tăng khả năng cạnh tranh.

DN TP.HCM tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến XK để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ảnh: Nguyễn Huế.

XK giảm nhẹ, NK tăng

Theo báo cáo của Sở Công Thương TP.HCM, trong 6 tháng đầu năm 2014 kim ngạch XK của các DN vào thị trường Trung Quốc đạt 1,04 tỉ USD, giảm 2,5% kim ngạch NK đạt 3,06 tỉ USD, tăng 16%, so với cùng kì 2013.

Phân tích sự ảnh hưởng của thị trường Trung Quốc đối với hoạt động XNK của thành phố trong trường hợp quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc có diễn biến xấu, ông Lê Văn Khoa cho biết, có một số mặt hàng của thành phố có tỉ trọng XK lớn vào thị trường Trung Quốc như máy tính, sản phẩm linh kiện điện tử, gạo, rau quả, cao su. Trong đó, mặt hàng máy tính, sản phẩm linh kiện điện tử hiện tại chủ yếu do khố DN FDI sản xuất và XK (chiếm 99%). Các DN này là các tập đoàn lớn, có thị trường ổn định nên không bị ảnh hưởng bởi thị trường XK.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh
Về mặt hàng gạo, hiện tại XK sang Trung Quốc chiếm khoảng 15,7%. Tuy nhiên, hiện tại các DN đang đa dạng hóa thị trường nên mức độ lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc không lớn. Riêng mặt hàng rau quả, tuy Trung Quốc là thị trường trọng điểm, chiếm tỉ trọng 46,5% nhưng cũng chỉ có mặt hàng ray củ quả tươi là có bị ảnh hưởng còn các sản phẩm chế biến chủ yếu XK qua Nhật Bản, Mỹ, EU). Do vậy, nếu có diễn biến bất lợi từ thị trường Trung Quốc, các sản phẩm rau quả tươi có thể tăng cường XK sang Malaysia, Singapore, Thái Lan do khoảng cách địa lí từ TP.HCM sang các thị trường này tương đối gần. Tuy nhiên kim ngạch XK cũng có thể bị ảnh hưởng từ 7% đến 10%.

Tương tự đối mặt hàng cao su, ngoài thị trường Trung Quốc (chiếm tỉ trọng khoảng 16,3%), thị trường XK cao su còn tập trung ở Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc. Do vậy, mức độ lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc không cao.

Theo ông Lê Văn Khoa, bên cạnh các mặt hàng XK nêu trên, còn có một số mặt hàng NK có thể chịu ảnh hưởng từ thị trường Trung Quốc như nguyên liệu phục vụ cho XK hàng dệt may, da giày, thuốc trừ sâu, máy móc thiết bị, máy vi tính. Trong đó, nguyên liệu vải phục vụ cho sản xuất XK hàng dệt may NK từ Trung Quốc chiếm trên 39%. Tuy nhiên, khối DN FDI chiếm 53,6% và khối DN trong nước chiếm 46,4%. Khối FDI thường chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào nên không bị ảnh hưởng. Khối DN trong nước có 70% DN gia công, do đối tác cung cấp nguyên vật liệu nên cũng ảnh hưởng không đáng kể, ảnh hưởng nhiều là các DN sản xuất theo phương thức FOB, ODM. Hiện các DN nghiên cứu chủ động chuyển hướng NK nguyên liệu từ Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản. Tuy nhiên, trong thời gian đầu có thể làm tăng chi phí từ 10% đến 15%.

Tương tự, nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất da giày, tỉ trọng NK từ Trung Quốc chiếm khoảng 24,1%. Giống như ngành dệt may, các DN FDI chiếm 82% trong ngành da giày nên không chịu tác động từ thị trường Trung Quốc nếu có diễn biến xấu. Các DN trong nước thì có thể NK nguyên phụ liệu từ Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, và chi phí ban đầu có thể tăng thêm từ 7% đến 10% . Riêng mặt hàng thuốc trừ sâu có thể chịu tác động lớn khi thị trường Trung Quốc có diễn biến không thuận lợi do mặt hàng này chủ yếu được sản xuất ở Trung Quốc, do đó nếu có chuyển thị trường thì giá NK có thể tăng từ 15% đến 20%.

Về máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng mặc dù có tỉ trọng NK từ Trung Quốc trên 23% nhưng chủ yếu là NK theo các dự án của các DN FDI Trung Quốc, Đài Loan. Riêng các máy móc phục vụ cho sản xuất, thời gian sử dụng lâu dài các DN có thể tính toán lộ trình và NK từ các nước có công nghệ tiên tiến do đó mức độ ảnh hưởng không lớn. Đối với mặt hàng sắt thép, tuy vẫn phải NK từ Trung Quốc một số mặt hàng đặc thù tuy nhiên các DN cũng có thể NK các mặt hàng này từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…

Cơ hội tái cấu trúc cho DN

Theo nhận định của ông Lê Văn Khoa, trước quan hệ Việt Nam- Trung Quốc có khả năng diễn biến theo chiều hướng xấu ảnh hưởng đến hoạt động XNK giữa hai nước, nên trong ngắn hạn sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN và hoạt động XNK của thành phố. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn đây cũng là cơ hội để DN thành phố tái cấu trúc lại thị trường XNK, nâng cao nội lực, tăng khả năng cạnh tranh.
dịch vụ làm báo cáo tài chính giá rẻ tại Hải Phòng
Cụ thể, các DN sẽ có cơ hội đa dạng hóa thị trường xuất khẩu đối với các mặt hàng XK, NK nhiều từ thị trường Trung Quốc như rau củ quả tươi, nguyên phụ liệu dệt may, da giày, thuốc trừ sâu, sắt thép. Đây sẽ là cơ hội để chuyển đổi thị trường, đa dạng hóa thị trường XNK. Theo ông Lê Văn Khoa, hiện TP.HCM có quan hệ với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đồng thời Chính phủ cũng đang đàm phán nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng đối với Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản nên đây sẽ là cơ hội tốt để các DN mở rộng thị trường XK, tránh phụ thuộc quá lớn vào một thị trường.

Bên cạnh việc mở rộng thị trường XK, các DN còn cơ cơ hội chuyển đổi đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến. Trong thời gian qua, nhiều DN đã mua máy móc công cụ từ Trung Quốc do giá rẻ, và phương thức thanh toán nhanh, linh hoạt. Tuy nhiên, các máy móc thiết bị này có tuổi thọ ngắn, tốn nhiên liệu, chất lượng sản phẩm làm ra thấp. Do vậy, về lâu dài dùng máy móc hiện đại từ Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ hiệu quả cao hơn. Do vậy có thể coi đây là cơ hội để các DN đổi mới để nâng cao hiệu quả và chất lượng sản xuất.

Đặc biệt, trước áp lực cần chủ động về nguồn nguyên phụ liệu để tránh phụ thuộc đồng thời đáp ứng yêu cầu từ các Hiệp định thương mại tự do mới, nhiều DN đã và đang từng bước chủ động hơn về nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, XK. Điển hình như Công ty dệt may Gia định đang đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất sợi. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cũng đã đầu tư 5 dự án công suất sản xuất sợi và đầu tư nhà máy sản xuất vải…

Về phía Sở Công Thương, ông Lê Văn Khoa cho biết, để hỗ trợ cho các DN đa dạng hóa thị trường XNK, Sở Công Thương cũng đã tham mưu cho UBND TP.HCM có những chính sách hỗ trợ DN phát triển thị trường nội địa, kết nối cung cầu hàng hóa, đồng thời đề xuất, Chính phủ có những chính sách hỗ trợ DN chuyển đổi, mở rộng thị trường XNK
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh
Nguồn Báo Hải Quan
[Read More...]


Vai trò của thông tin kế toán trong công tác quản lý



Kế toán doanh nghiệp (DN) có vai trò rất quan trọng đối với việc cung cấp thông tin kế toán phục vụ công tác quản lý và điều hành DN, là cơ sở cho việc ra các quyết định kinh tế và điều hành của chủ DN cũng như đối với các đối tượng liên quan như các cơ quan quản lý Nhà nước, các đối tác làm ăn, các Nhà đầu tư,… Cùng với sự phát triển của đất nước và mục tiêu quản lý từng thời kỳ thì mức độ cần thông tin kế toán cùng thời kỳ cũng khác nhau, sự biểu hiện cũng khác nhau. Hệ thống Kế toán Việt Nam đã có những thành công rõ nét với đầy đủ cơ sở pháp lý từ Luật Kế toán, các Nghị định hướng dẫn Luật Kế toán, Hệ thống Chuẩn mực Kế toán và các thông tư hướng dẫn Chuẩn mực Kế toán; Chế độ Kế toán các loại hình DN. Vậy, làm thế nào để thông tin kế toán đáp ứng được yêu cầu là nội dung cơ bản của bài viết này.


Thứ nhất, yêu cầu cơ bản về thông tin kế toán

Một số yêu cầu cơ bản của thông tin kế toán hiện nay có thể liệt kê đó là:

Trung thực, các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

Khách quan, các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo.

Đầy đủ, mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót.

Kịp thời, các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.

Dễ hiểu, các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong báo cáo tài chính (BCTC) phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về kinh doanh, về kinh tế, tài chính, kế toán ở mức trung bình. Thông tin về những vấn đề phức tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại biên hòa đồng nai Có thể so sánh, các thông tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một DN và giữa các DN chỉ có thể so sánh được khi tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải giải trình trong phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh thông tin giữa các kỳ kế toán, giữa các DN hoặc giữa thông tin thực hiện với thông tin dự toán, kế hoạch.

Thứ hai, cơ sở hình thành thông tin kế toán

Để hình thành được thông tin kế toán cần phải thông qua toàn bộ quy trình kế toán từ khâu thu thập thông tin ban đầu, đến khâu xử lý rồi phân tích và cung cấp thông tin kế toán.
Thu thập thông tin kế toán đó là việc ghi nhận ban đầu các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh thông qua phương pháp chứng từ kế toán (biểu hiện là các bản chứng từ kế toán và trình tự luân chuyển chứng từ kế toán). Với khâu này, toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh ban đầu được ghi nhận vào các bản chứng từ một cách trung thực, hợp lý, đầy đủ nhằm làm cơ sở nền tảng cho các khâu tiếp theo của quá trình kế toán.

Xử lý thông tin kế toán, đó là thông qua những thông tin ban đầu, sẽ tiếp tục được phân loại, sắp xếp, xử lý, hệ thống hóa thông qua các phương pháp kế toán như phương pháp Tài khoản kế toán và phương pháp tính giá, phương pháp tổng hợp - cân đối nhằm mục tiêu có được những thông tin phù hợp để ghi nhận vào các loại sổ kế toán, các báo cáo liên quan. Tại khâu này, các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh đã được xử lý phù hợp và ghi nhận, nhưng vẫn chưa cung cấp được các thông tin một cách toàn diện mà cần phải tiếp tục tiến hành ở khâu tiếp theo.

Phân tích và cung cấp thông tin là từ những thông tin kế toán được ghi nhận sẽ tiếp tục được phân tích thông qua các phương pháp phân tích theo chiều dọc, phân tích theo chiều ngang, số tuyệt đối, số tương đối,... Nhằm có được những số liệu, những thông tin đáp ứng được yêu cầu của các đối tượng liên quan. Ví dụ như, từ số liệu số dư Nợ tiền trên Bảng cân đối kế toán qua phương pháp phân tích sẽ chỉ cho người đọc BCTC biết được số tuyệt đối giữa số dư tiền kỳ này và số dư tiền kỳ trước, sẽ biết được mức độ tăng/giảm của số dư tiền, sẽ biết được nguyên nhân làm thay đổi số dư tiền,...

Thứ ba, hình thức biểu hiện của thông tin kế toán

Kế toán sử dụng các thước đo giá trị, thước đo hiện vật và thước đo thời gian. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là thước đo giá trị. Đối với kế toán tài chính thì cung cấp các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu phục vụ cho các đối tượng bên ngoài nên cần có giá trị pháp lý cao và theo khuôn mẫu nhất định về mặt trình bày, hình thức biểu hiện và thời gian; ngược lại, kế toán quản trị chủ yếu cung cấp thông tin cho chủ DN trong việc ứng xử và ra các quyết định kinh doanh, không mang tính chất bắt buộc nên có hình thức biểu hiện và báo cáo tức thì theo yêu cầu. Hơn nữa, kế toán quản trị sử dụng các số liệu quá khứ để từ đó định hướng dự báo tương lai, nên khuôn mẫu báo cáo cũng đa dạng nhằm mục tiêu đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin của chủ DN

Thứ tư, đánh giá chất lượng của thông tin kế toán

Để đánh giá chất lượng thông tin kế toán cung cấp tùy theo từng nhu cầu và mục tiêu nhất định, cũng như căn cứ vào các Báo cáo kế toán khác nhau mới đánh giá được chất lượng thông tin kế toán. Như thông qua BCTC sẽ biết được tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản; kết quả kinh doanh và mức độ chắc chắn về luồng tiền của  DN. Cụ thể:

Với Bảng CĐKT sẽ cung cấp các thông tin về tình hình tài sản và nguồn hình thành tài sản của DN tại một thời điểm. Các chỉ tiêu phần tài sản phản ánh giá trị các loại vốn của DN hiện có đến thời điểm lập BCTC, cho phép đánh giá quy mô, kết cấu đầu tư vốn, năng lực và trình độ sử dụng vốn của DN, giúp DN xây dựng được một kết cấu vốn hợp lý nhất; Thể hiện các loại vốn cụ thể mà DN đang có quyền quản lý, quyền sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Mặt khác, DN phải có trách nhiệm trong việc sử dụng lượng tài sản đó trong sản xuất kinh doanh nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.

Phần Nguồn vốn thể hiện giá trị và quy mô các nguồn vốn mà DN đã, đang huy động sử dụng để đảm bảo cho lượng tài sản của DN trong sản xuất kinh doanh. Cho phép đánh giá được thực trạng tài chính, kết cấu của từng nguồn vốn được sử dụng trong hoạt động kinh doanh; Thể hiện quyền quản lý và sử dụng các loại nguồn vốn của DN trong đầu tư hình thành kết cấu tài sản. Mặt khác, DN phải có trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn.

Với Báo cáo Kết quả HĐKD sẽ cung cấp các thông tin về thu nhập, chi phí, kết quả và nghĩa vụ thuế của DN trong một thời kỳ
Với Báo cáo LCTT cung cấp các thông tin về luồng tiền của DN và khả năng, mức độ chắc chắn tạo luồng tiền của DN trong một thời kỳ; kết cấu/tỷ trọng các luồng tiền được tạo ra trong DN.

Với Bản Thuyết minh BCTC sẽ cung cấp, bổ sung các thông tin minh họa, chi tiết hơn về Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo Lưu chuyển tiền tệ cũng như giải trình về việc tuân thủ chính sách kế toán và các thông tin khác liên quan đến DN.

Với các báo cáo quản trị sẽ giúp cho chủ DN biết được các kế hoạch trong tương lai, phục vụ kiểm soát chi phí trong quá trình sản xuất hoặc phục vụ cho việc lựa chọn phương án kinh doanh ngắn hạn, định giá bán sản phẩm, dự toán các BCTC,... Các báo cáo quản trị không có khuôn mẫu nhất định mà chủ yếu do kế toán DN dựa vào yêu cầu cung cấp thông tin, mục tiêu quản trị để đưa ra các báo cáo này.

Với thông tin về thuế và kế toán thuế, sẽ giúp cho chủ DN biết được tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước như thế nào cũng như việc vận dụng những quy định về chính sách tài chính, chính sách thuế để nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho DN. Hiện nay, liên quan đến các vấn đề thuế có pháp luật về quản lý thuế và pháp luật cụ thể các loại thuế. Mỗi loại thuế cụ thể, sẽ có những báo cáo nhất định phù hợp đáp ứng yêu cầu quản lý thuế.

Tùy từng quy mô, lĩnh vực hoạt động mà yêu cầu cung cấp thông tin cũng khác nhau, như đối với các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia thì đặc điểm yêu cầu cung cấp thông tin sẽ là:

Thứ nhất, phản ánh được các vấn đề liên quan đến tỷ giá hối đoái: Hầu hết các hoạt động kinh doanh quốc tế liên quan đến việc đổi một đồng tiền này lấy đồng tiền khác để thực hiện thanh toán. Hành vi đó, luôn liên quan đến tỷ giá hối đoái. Trong khi đó, tỷ giá hối đoái biến động theo thời gian, làm cho các luồng tiền trong thanh toán cũng thay đổi theo. Hậu quả là, số lượng nội tệ mà Cty cần phải trả để mua hàng nước ngoài có thể thay đổi, thậm chí ngay cả khi người cung cấp không hề điều chỉnh lại giá cả của chúng. Sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng có thể tác động đến nhu cầu nước ngoài đối với sản phẩm của Cty. Khi đồng tiền trong nước mạnh lên, sản phẩm được thể hiện bằng đồng tiền đó sẽ đắt hơn đối với người nước ngoài. Điều này, có thể dẫn đến sự suy giảm nhu cầu và từ đó mà làm giảm luồng tiền vào. Đối với các tập đoàn có chi nhánh ở nước ngoài, sự biến động tỷ giá hối đoái tác động tới giá trị của các luồng tiền chuyển từ Cty con tới Cty mẹ. Khi đồng tiền trong nước của Cty mẹ mạnh, số tiền được chuyển vô hình dung sẽ bị giảm đi so với số tiền tiêu dùng trong nước.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hải phòng Thứ hai, tuân thủ quy định về chính sách kế toán tài chính của từng quốc gia có Cty: Với mạng lưới hoạt động rộng lớn ở nhiều nước, nên tại từng nước sở tại các Cty này đều phải tuân thủ các quy định về chính sách tài chính kế toán của nước bản địa. Đồng thời, để phục vụ cho mục tiêu chung của cả Tập đoàn xuyên quốc gia định kỳ phải gửi các báo cáo về Cty mẹ nhằm thực hiện kiểm soát cũng như phục vụ việc lập BCTC hợp nhất. Sự chuyển BCTC theo quy định của nước sở tại ảnh hưởng đến các chính sách kế toán, quy chế tài chính và các quy định khác,... Tuy nhiên, BCTC hợp nhất chỉ được thực hiện khi có sự đồng nhất về chính sách kế toán, kỳ kế toán,... Do đó, lại phải xuất điều chỉnh nhằm mục tiêu này. Để thực hiện được điều này, có thể các kế toán của Cty mẹ sẽ có chính sách cụ thể ban đầu nhằm phục vụ việc kiểm tra cũng như lập BCTC hợp nhất hoặc có thể phải thực hiện lập BCTC bổ sung nhằm hạn chế sự khác biệt.

Thứ ba, phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí giữa các Cty con và Cty mẹ: Thể hiện tính độc lập ở chỗ các Cty con chủ động đề ra các chính sách kinh doanh, chính sách kinh tế tài chính nhằm mục tiêu lợi nhuận của Cty con cũng như của cả Tập đoàn. Trong quá trình này phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến tăng/giảm tài sản, tăng/giảm Nguồn vốn, ghi nhận doanh thu, ghi nhận chi phí,... Ngoài ra, tính phụ thuộc thể hiện Cty mẹ có quyền tham gia vào việc đề ra các chính sách tài chính và các hoạt động kinh tế nhằm thu được các lợi ích kinh tế chung của Tập đoàn xuyên quốc gia. Nên cần có sự phân bổ chi phí, doanh thu, lợi nhuận giữa Cty mẹ và các Cty con.

Thứ tư, mối quan hệ với các Cty liên doanh, Cty liên kết: Mối quan hệ với các Cty liên doanh, Cty liên kết là cần thiết khách quan trong các giao dịch để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Việc phản ánh các giao dịch với các Cty này tuân thủ đúng các quy định tuy phương pháp ghi nhận và phản ánh khác nhau. Và khi chuẩn bị trình bày, lập BCTC hợp nhất cũng là yêu cầu quan trọng bắt buộc.

Thứ năm, có nhiều đối tượng sử dụng thông tin kế toán với những quy chuẩn khác nhau: Cty mẹ đặt tại một nước và có nhiều Cty con, Cty liên doanh, Cty liên kết ở các nước khác nhau, nhưng khi cung cấp thông tin về BCTC hợp nhất của Tập đoàn xuyên quốc gia thì phải chuẩn hóa theo quy định nhất định và có thể khẳng định là những tiêu chuẩn đã được kế toán quốc tế nói chung thừa nhận rộng rãi, có giá trị pháp lý cao. Do đó, trong quá trình chuẩn bị trình bày và lập BCTC hợp nhất việc chuyển đổi theo quy định quốc tế là tất yếu và sẽ có những giao dịch trọng yếu.

Như vậy, để đưa ra quyết định kinh tế phục vụ công tác quản lý, điều hành DN cần thiết và tiên quyết phải dựa vào các thông tin kế toán, thông tin thuế của DN. Nhận thức được điều này, để từ đó các chủ DN hoạch định việc thu nhận - xử lý và phân tích, cung cấp thông tin kế toán đáp ứng được vai trò đối với từng DN.

Ths. Cao Xuân Hợp
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại vĩnh phúc Theo Tạp chí Kế toán và Kiểm toán
[Read More...]


Những điều cần hoàn thiện trong báo cáo thường niên



Mục đích của báo cáo thường niên là nhằm giới thiệu cho các nhà đầu tư một cách đầy đủ các hoạt động trọng yếu và tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và nhằm mục đích chính là dự đoán giá cổ phiếu và các yếu tố liên quan như lãi trên mỗi cổ phiếu (EPS) của doanh nghiệp trong tương lai.

Do đó, việc trình bày báo cáo thường niên cũng như các số liệu tài chính trong quá khứ phải làm sao giúp các nhà đầu tư dễ dự đoán tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của công ty, đặc biệt là EPS tương lai.

Các nhà đầu tư vốn chủ sở hữu kỳ vọng vào cả cổ tức và sự tăng trưởng trong giá trị cổ phiếu mà họ nắm giữ. Các nhà đầu tư có rủi ro là có thể không nhận được những khoản tiền này. Do vậy các nhà đầu tư sử dụng các báo cáo thường niên để: (1) Dự đoán các khoản lãi kỳ vọng của họ và (2) Đánh giá các rủi ro gắn liền với các khoản tiền lãi này.

1. Những điều có thể làm tốt hơn trong các báo cáo thường niên.

Bạn có thể dễ dàng tìm kiếm trên Internet các báo cáo thường niên của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới niêm yết trên các thị trường chứng khoán quốc tế tại Mỹ hay Châu Âu như PG.com của tập đoàn P&G (Mỹ), Unilever.com của tập đoàn Unilever (Hà lan và Anh Quốc). Mặc dù ở Việt Nam đã có một số quy định những điều tối thiểu phải trình bày trên báo cáo thường niên cho các công ty niêm yết. Tuy nhiên các công ty có thể làm được nhiều hơn thế để giới thiệu về mình với các nhà đầu tư. Việc trình bày tốt báo cáo thường niên là một công cụ hữu hiệu để giúp các nhà đầu tư hiểu hơn về công ty mình. Khi nhiều nhà đầu tư biết và đánh giá cao về công ty của bạn, có nghĩa là cổ phiếu của công ty bạn được nhà đầu tư đánh giá cao, do vậy nó có thể ảnh hưởng tốt đến giá cổ phiếu của công ty. Bởi vậy bạn có thể tham chiếu các báo cáo thường niên của các tập đoàn nổi tiếng thế giới cho báo cáo thường niên của mình. Sau đây là một số điểm mà tác giả cho rằng báo cáo thường niên của các công ty Việt Nam có thể làm tốt hơn.

1.1. Giới thiệu chiến lược của công ty: Bạn nên giới thiệu với nhà đầu tư chiến lược dài hạn của công ty mà nó tạo nên sự khác biệt và sự thành công của công ty. Những chiến lược này giúp cho nhà đầu tư có một cái nhìn về khả năng phát triển dài hạn của công ty. Chiến lược của công ty phải gắn liền với các thế mạnh của công ty cũng như trong mối liên hệ với môi trường kinh doanh của công ty. Hiện tại nhiều công ty Việt Nam đã có phần trình bày về tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi của công ty, tuy nhiên nhiều công ty không có phần trình bày về chiến lược phát triển công ty hoặc trình bày khá sơ sài. Điều này có thể làm cho nhà đầu tư có thể chưa thực sự yên tâm về khả năng phát triển dài hạn của công ty bạn.

1.2. Rủi ro và quản trị rủi ro:  Báo cáo thường niên nên trình bày các rủi ro chính mà công ty có thể phải đối mặt trong năm tới (tức năm hiện tại của ngày phát hành báo cáo thường niên) và các hành động mà công ty sẽ sử dụng để hạn chế các rủi ro xảy ra. Trình bày tốt phần này có nghĩa là công ty của bạn đã chuẩn bị rất tốt, đã dự liệu các rủi ro có thể xảy ra trong tương lai và các biện pháp để ngăn ngừa nó. Điều này giúp các nhà đầu tư tin tưởng hơn những dự báo kết quả và tình hình tài chính của bạn. Ví dụ Unilever đưa ra các dự báo rủi ro cho năm 2010 về kinh tế như sau: Suy giảm kinh doanh trong thời kỳ kinh tế toàn cầu suy giảm, tránh việc sụp đổ của các khách hàng và nhà cung cấp. Do vậy họ: Kiểm soát cẩn thận các chỉ số kinh tế và thường xuyên sử dụng các mô hình ảnh hưởng của các kịch bản kinh tế khác nhau…

1.3. Các số liệu tài chính quan trọng nên trình bày ít nhất là 5 năm liên tục, và nó phải có ý nghĩa so sánh.  Để đánh giá đầy đủ về một công ty, các nhà đầu tư cần đánh giá các số liệu của ít nhất là 5 năm gần nhất, được trình bày sao cho thuận tiện nhất cho việc so sánh. Về nguyên tắc bạn nên trình bày càng dài càng tốt từ 10-15 năm như vậy nhà đầu tư càng thấy cả quá trình phát triển của công ty. Báo cáo thường niên 2009 của P&G trình bày 11 năm từ năm 2009 đến năm 1999. Các số liệu tài chính quan trọng có thể bao gồm như: Doanh thu thuần, Lãi kinh doanh, Lãi trước thuế, lãi sau thuế cho cổ đông công ty mẹ, EPS cơ bản, EPS pha loãng, EPS của các hoạt động tiếp tục, EPS của các hoạt động không tiếp tục, Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh, Tổng tài tài sản, tổng công nợ, tổng vốn chủ sở hữu. Rất nhiều báo cáo thường niên hiện chỉ trình bày số liệu có 2 hay 3 năm. Có một số công ty trình bày số liệu tài chính quan trọng 5 năm nhưng các số liệu EPS lại không được điều chỉnh hồi tố khi có các sự kiện chia thưởng cổ phiếu hay chia cổ tức bằng cổ phiếu. Bởi vậy việc so sánh EPS qua các năm là không mấy ý nghĩa hoặc thậm chí là làm sai lệch nghiêm trọng.

1.4. Điều chỉnh EPS hồi tố. Nếu số cổ phiếu phổ thông hay cổ phiếu phổ thông tiềm năng đang lưu hành tăng như là kết quả của việc phát hành cổ phiếu thưởng hay chia tách cổ phiếu, trả cổ tức bằng cổ phiếu, việc tính EPS cơ bản và pha loãng cho tất cả các kỳ được trình bày phải được điều chỉnh tương ứng. Hiện nay một số công ty không điều chỉnh EPS, một số khác có điều chỉnh EPS của năm trước, nhưng lại không điều chỉnh trong các phần các chỉ tiêu tài chính quan trọng cho 5 năm, kết quả là các nhà đầu tư có được các thông tin EPS gốc mà nó không có mấy ý nghĩa trong việc so sánh. Ví dụ BCTN của Sacombank ở trang 44 phần các chỉ tiêu tài chính chủ yếu qua các năm, ghi nguyên gốc EPS năm 2009 là 2.771 đ/CP, năm 2008 là 1.869 đ/CP, trong báo cáo kết quả kinh doanh cũng tương tự. Tuy nhiên trong phần thuyết minh số 25 trang 90 thì ghi cả EPS điều chỉnh , khi đó EPS năm 2008 là 1.623 đ/CP (thay vì 1.869). Lẽ ra EPS năm 2008 trong tất cả các báo cáo của năm 2009 phải được trình bày là EPS điều chỉnh (1.623 đ/CP), con số này mới có ý nghĩa cho việc so sánh để thấy được sự tăng trưởng của EPS qua các năm. Tương tự EPS của các năm 2007 đến 2005 trong số liệu tài chính qua các năm đều phải điều chỉnh tương ứng để thấy được sự tăng trưởng của EPS. Việc chỉ trình bày EPS điều chỉnh trong phần thuyết minh các báo cáo tài chính mà không trình bày trên các báo cáo quan trọng như Báo cáo kết quả và phần các chỉ tiêu tài chính quan trọng qua các năm, dễ làm cho các nhà đầu tư hiểu nhầm, vì không phải ai cũng có thời gian đọc phần thuyết minh rất dài của các báo cáo tài chính. Hơn nữa việc phải trình bày EPS điều chỉnh hồi tố là bắt buộc theo quy định của VAS và IFRS (CM báo cáo tài chính quốc tế).

1.5. EPS pha loãng (Diluted EPS). Việc tính EPS trở nên phức tạp khi công ty có các khoản trái phiếu chuyển đổi, chứng quyền và lựa chọn quyền mua cổ phiếu hay các công cụ tài chính mà nó có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông. VAS quy định chưa rõ ràng về EPS “suy giảm” tức pha loãng mặc dù chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 33 “yêu cầu bắt buộc báo cáo kết quả kinh doanh của các công ty phải trình bày cả hai chỉ tiêu EPS cơ bản và EPS pha loãng trên bề mặt của Báo cáo Kết quả kinh doanh với mức độ nổi bật như nhau”. Nhiều công ty Việt Nam hiện nay vẫn chưa báo cáo EPS pha loãng. Cho các quyết định đầu tư, nhà đầu tư luôn cần phải xem xét cả EPS cơ bản và EPS pha loãng. Trong tình huống mà doanh nghiệp có nhiều trái phiếu chuyển đổi thì EPS pha loãng vô cùng quan trọng nó là một chỉ báo cho EPS của các năm tới chứ không phải là EPS cơ bản. Ví dụ của ngân hàng ACB trong những năm gần đây là một điển hình mà EPS pha loãng là cơ sở chính xác hơn để các nhà đầu tư ước tính EPS của những năm tới.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh
Chỉ tiêu                                    2009    2008
EPS cơ bản (Đ/CP)               3.042   3.563
EPS pha loãng (Đ/CP)         2.751   2.979

Tuy nhiên nhiều công ty không trình bày chỉ tiêu EPS pha loãng. SSI cuối năm 2009 vẫn còn hơn 222 tỷ đ trái phiếu chuyển đổi sẽ chuyển thành 22.222.400 cổ phiếu mà nó sẽ chuyển đổi vào ngày 30.1.2010 để tăng vốn điều lệ từ 1.533 tỷ đ lên 1.755 tỷ đ. Tuy nhiên trong phần báo cáo tài chính của SSI năm 2009 không trình bày chỉ tiêu rất quan trọng đối với các nhà đầu tư là EPS pha loãng. Nếu tính EPS pha loãng của SSI, nó sẽ giảm hơn 10% so với EPS cơ bản do cổ phiếu của SSI bị pha loãng 14%.

1.6. Trình bày Lương và thu nhập của Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Theo quy định của Việt Nam, Lương của TGĐ phải được báo cáo trước đại hội đồng cổ đông. Đó là một chỉ tiêu khá nhạy cảm ở Việt Nam. Rất nhiều công ty không đưa chỉ tiêu này vào báo cáo thường niên hoặc đưa vào số liệu tổng cho cả một nhóm ví dụ như HĐQT, Ban kiểm soát và Ban tổng giám đốc. Cũng có công ty đưa ra con số % lương, thu nhập, thù lao trên tổng số thu nhập như của Vinamilk mà thực chất thì những con số này gần như không có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư. Nếu một công ty trả lương tốt cho Tổng giám đốc, Chủ tịch HĐQT mà công ty vẫn có kết quả kinh doanh tốt, thì đó là một công ty tốt. Tuy nhiên nếu một công ty trả lương cho từng cá nhân lãnh đạo công ty rất thấp nhưng công ty có kết quả kinh doanh tốt, điều đó làm các nhà đầu tư thấy bất an bởi tính bền vững của các nhà quản trị này, liệu họ có tiếp tục làm ở đấy nữa hay không? Rủi ro mà nhà quản trị chuyển sang công ty khác có mức thu nhập tốt hơn rất dễ xảy ra.

2. Trình bày các báo cáo tài chính

2.1. Trình bày báo cáo tài chính cho số liệu của 3 năm gần nhất (thay vì chỉ có 2 như hiện nay). Mặc dù chế độ kế toán của Việt Nam chỉ quy định bắt buộc các số liệu của năm hiện tại và năm trước đó. Tuy nhiên để các nhà đầu tư có một cách nhìn tốt hơn về công ty, đa phần các báo cáo tài chính của các công ty trên thị trường chứng khoán quốc tế (Unilever hay P&G) trình bày 3 năm liên tục cho năm hiện tại và 2 năm liền trước đó. Như vậy nhà đầu tư sẽ có các số liệu lịch sử dài hơn để có thể đánh giá về công mà có thể không cần phải tìm hiểu thêm báo cáo của các năm trước đó. Điều này không trái với quy định của chế độ kế toán Việt Nam.

2.2. Các hoạt động không tiếp tục. Các hoạt động không tiếp tục liên quan đến việc đóng cửa hoặc bán một bộ phận của doanh nghiệp. Nếu một công ty cắt bỏ một bộ phận kinh doanh nào đó, nó cần phải báo cáo riêng biệt kết quả kinh doanh của các bộ phận vẫn tiếp tục và các bộ phận không tiếp tục, cả hai đều phải được báo cáo trên báo cáo kết quả kinh doanh hay trong thuyết minh báo cáo tài chính. Để có các báo cáo kết quả kinh doanh có tính so sánh tốt, lãi lỗ của các bộ phận không tiếp tục cần được chỉ ra riêng biệt cho tất cả các năm trong quá khứ mà bộ phận này hoạt động, nếu không tình hình tài chính hiện tại của công ty mà nó không bao gồm các bộ phận đã cắt bỏ, sẽ không thể so sánh được với tình hình tài chính (các số liệu) quá khứ. EPS là một sự tổng hợp quan trọng, nó được báo cáo riêng biệt cho các hoạt động không tiếp tục.

2.3. Báo cáo bộ phận . VAS 28 đã yêu cầu chi tiết về báo cáo các bộ phận, nó giống như IAS 14, tuy nhiên dường như các công ty làm báo cáo bộ phận rất sơ sài chưa đáp ứng được các yêu cầu của VAS cũng như yêu cầu của các nhà đầu tư. Báo cáo bộ phận cần thiết cho việc đánh giá rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp có nhiều ngành hàng khác nhau, có cơ sở ở nước ngoài hoặc doanh nghiệp có phạm vi hoạt động trên nhiều khu vực địa lý khác nhau. Báo cáo bộ phận nhằm hỗ trợ người sử dụng báo cáo tài chính: a) Hiểu rõ về tình hình hoạt động các năm trước của doanh nghiệp; b) Đánh giá đúng về những rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp; và c) Đưa ra những đánh giá hợp lý hơn về doanh nghiệp.

Ví dụ báo cáo bộ phận của Vinamilk chỉ đưa ra báo cáo kết quả ngắn gọn của bộ phận xuất khấu và bán nội địa. Thiết nghĩ Vinamilk nên báo cáo bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hay ngành hàng cũng như nhìn thấy được sự rủi ro của chúng. Trong báo cáo của Chủ tịch HĐQT Vinamilk đã báo cáo rõ hơn về các bộ phận gồm (1) Nhóm sữa bột và bột dinh dưỡng, (2) Sữa đặc có đường, (3) Sữa tươi và sữa chua uống, (4) Hàng lạnh, thực phẩm và giải khát, (5) Cà phê, (6) Đầu tư tài chính. Nếu báo cáo bộ phận của Vinamilk trình bày theo các ngành này thì nhà đầu tư sẽ dễ dự đoán được tương lai của công ty hơn. Các số liệu báo cáo bộ phận nên trình bày cho 3 năm.

lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải dương 2.4. Báo cáo kết quả theo quý và cả năm. Hoạt động của các doanh nghiệp thường có tính thời vụ, để các nhà đầu tư có một cái nhìn đầy đủ hơn về doanh nghiệp, bạn nên trình bày báo cáo kết quả rút gọn theo từng quý và cho 2 năm.

Hãy xem trích đoạn của báo cáo thường niên của P&G năm 2009, phần Kết quả theo quý (chưa kiểm toán) (đơn vị Triệu USD):

Ngày kết thúc quý                    30.9         31.12        31.3         30.6          Cả năm
Doanh thu thuần 2008         19.799     21.038      20.026    20.885        81.748
Doanh thu thuần 2009         21.582     20.368      18.417    18.662        79.024

Những công ty hoạt động có tính thời vụ lớn như ngành bánh kẹo, đồ gỗ, thời trang thì báo cáo năm theo quý đặc biệt có ý nghĩa với các nhà đầu tư.

2.5. Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. Trong báo cáo thường niên của P&G năm 2009, 3 chỉ tiêu tài chính quan trọng nhất được làm nổi bật (trang đầu) đó là Doanh thu ròng, EPS và dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp có tình hình tài chính, và kết quả kinh doanh bình thường thì dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh là một số dương và nó thường ở mức bằng lãi ròng sau thuế cộng với các khoản chi phí khấu hao và chi phí không phải chi tiền trong kỳ. Nó nói lên rằng cho các hoạt động kinh doanh thông thường, dòng tiền thu về từ bán hàng và dịch vụ đủ bù đắp cho các chi phí kinh doanh thông thường và còn dư ra một khoản để tái đầu tư cho tương lai. Tuy nhiên do các hướng dẫn của VAS chưa rõ ràng, các khoản phải trả thương mại bao gồm cả các khoản phải trả khác cho mua sắm tài sản dài hạn, hay tài sản tài chính do vậy dòng tiền từ thuần từ hoạt động kinh doanh có thể bị lẫn lộn với các dòng tiền từ các hoạt động đầu tư hay tài chính. Báo cáo thường niên năm 2008 của một công ty đồ gỗ (trong nhóm 10 báo cáo thường niên hay nhất năm 2008) bị lỗi kỹ thuật rất nghiêm trọng này.

2.6. EPS cơ bản: EPS là một chỉ tiêu rất quan trọng của các công ty đại chúng và nhất là các công ty niêm yết. Tuy nhiên do chế độ kế toán của Việt Nam đưa ra cách tính sai rất căn bản (đến này vẫn chưa sửa). Đó là lãi dùng để tính EPS bao gồm cả các khoản quỹ khen thưởng phúc lợi không thuộc cổ đông. Bởi vậy EPS của các công ty bị sai lệnh nhiều ít tùy thuộc vào phần lãi sau thuế cho quỹ khen thưởng phúc lợi của công ty đó. Rất nhiều công ty trích quỹ khen thưởng phúc lợi từ 5-15% lợi nhuận sau thuế, do vậy EPS của các công ty này cũng bị sai lệch tương ứng tỷ lệ này. Vinamilk năm 2009 trích 10% lãi sau thuế cho quỹ khen thưởng phúc lợi, nên EPS của Vinamilk bị sai lệch so với số thực là 10%. Cá biệt có công ty trích quỹ này lên tới 30% như Công ty Than Núi Béo.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại long biên Theo Webketoan
[Read More...]


TRUNG TÂM KẾ TOÁN HÀ NỘI

Return to top of page